Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai trò then chốt của công tác cán bộ, trong đó có việc không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Quan điểm, chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tư cách, tiêu chuẩn của người đảng viên cộng sản cần tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng sáng tạo, làm cơ sở để xây dựng thế hệ đảng viên “vừa hồng, vừa chuyên” trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Chủ nghĩa Mac-Lê-nin , tư tưởng Hồ Chí Minh về tư cách, tiêu chuẩn người đảng viên - Gợi mở xây dựng thế hệ đảng viên trong kỷ nguyên mới
Chủ nghĩa Mac-Lê-nin , tư tưởng Hồ Chí Minh về tư cách, tiêu chuẩn người đảng viên - Gợi mở xây dựng thế hệ đảng viên trong kỷ nguyên mới

Quan điểm, chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác-Lê-nin về tư cách, tiêu chuẩn của người đảng viên cộng sản

Tư cách của một người được phản ánh thông qua tinh thần, thái độ, ý chí, cách thức giao tiếp, ứng xử trong các mối quan hệ cũng như trong giải quyết công việc. Tư cách cũng có thể được nhìn nhận như khí chất, bản chất, chất lượng, đặc trưng của mỗi cá nhân, là một loại sức hút vô hình toát ra từ nội tâm và phong thái mà ở mỗi người có sự khác nhau. Trong quá trình thành lập, hoạt động và phát triển của các đảng cộng sản, thúc đẩy cách mạng vô sản, vấn đề quan trọng được C. Mác, Ph.Ăng-ghen luôn quan tâm đó là chỉ rõ cơ sở lý luận và kiểm nghiệm trong thực tiễn vấn đề về phẩm chất, tư cách hay đặc trưng cơ bản của người đảng viên đảng cộng sản. Đó phải là nền tảng vững chắc, thiết thực nhất để phân biệt rõ người đảng viên cộng sản với người không phải đảng viên cộng sản.

Trong lịch sử phát triển cách mạng vô sản, vấn đề xây dựng đội ngũ đảng viên đáp ứng yêu cầu tư cách và tiêu chuẩn do C. Mác, Ph. Ăng-ghen đề ra là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu bởi đảng viên là nhân tố cốt lõi, tạo nên bản chất, chất lượng của Đảng, bảo đảm sự trong sạch, kiên định, vững mạnh, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng. Ngay từ quá trình chuẩn bị và thành lập đảng cộng sản đầu tiên trên thế giới - Liên đoàn những người cộng sản (năm 1847), C. Mác bước đầu xác định các tiêu chí, đặc trưng đối với đảng viên đảng cộng sản, cụ thể: 1- Lối sống và hoạt động phù hợp với mục đích Liên đoàn; 2- Nghị lực cách mạng và lòng nhiệt thành trong công tác tuyên truyền; 3- Thừa nhận chủ nghĩa cộng sản; 4- Không tham gia vào mọi tổ chức chống cộng sản và có nghĩa vụ báo cáo với cơ quan lãnh đạo khi tham gia vào một tổ chức nào đó; 5- Phục tùng các nghị quyết của Liên đoàn; 6- Giữ bí mật mọi công việc của Liên đoàn; 7- Được một chi bộ nhất trí kết nạp(1). Trong đó, có các tiêu chí ổn định trong thời gian dài, như lối sống, nghị lực và lòng nhiệt thành cách mạng, thừa nhận chủ nghĩa cộng sản...

Đến tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (năm 1848), C. Mác, Ph. Ăng-ghen đã chỉ ra đặc trưng cơ bản về tư cách người đảng viên cộng sản: “Những người cộng sản chỉ khác với các đảng vô sản khác trên hai điểm: một là, trong các cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản; hai là, trong các giai đoạn khác nhau của cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản, họ luôn luôn đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào”(2). Vậy là, người cộng sản là lực lượng kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở các nước, là bộ phận tiên tiến nhất cổ vũ tất cả bộ phận khác; đồng thời, họ hiểu rõ điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản. C. Mác cũng đã chỉ ra đặc trưng cơ bản nhất, sinh động nhất của người đảng viên cộng sản: “Những ủy viên của Ủy ban trung ương cũng như phần lớn ủy viên Công xã, đều là những đầu óc tích cực nhất, sáng suốt nhất và cương quyết nhất của Hội Liên hiệp công nhân quốc tế... Đó là những nhân vật vô cùng trung thực, chân thực, thông minh, tận tụy, trong sạch và cuồng tín hiểu theo nghĩa tốt nhất của chữ đó”(3) và kết luận: “Dù cuộc đấu tranh giai cấp biểu hiện ra ở đâu và trong điều kiện nào, dù cuộc đấu tranh đó mang hình thức nào, đương nhiên là các hội viên của Hội Liên hiệp chúng ta đều đứng ở hàng đầu”(4).

Tiếp đó, lãnh tụ của Liên Xô vĩ đại V. I. Lê-nin đã kế thừa, phát triển tư tưởng nêu trên của C. Mác, Ph. Ăng-ghen và chỉ ra những tiêu chuẩn cơ bản khác của người đảng viên cộng sản trong giai đoạn Đảng lãnh đạo giành chính quyền cũng như xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người gọi đây là tư cách người đảng viên cộng sản. V. I. Lê-nin xác định: “Tất cả những người nào thừa nhận cương lĩnh của đảng và ủng hộ đảng bằng những phương tiện vật chất cũng như bằng cách tự mình tham gia một trong những tổ chức của đảng”(5) là điều kiện tiên quyết để hình thành một Đảng tiên phong, có kỷ luật chặt chẽ, nghiêm minh; đồng thời, V. I. Lê-nin cũng đề cao tính tổ chức, kỷ luật của đảng viên, sự gắn bó chặt chẽ giữa đảng viên với tổ chức đảng; yêu cầu tổ chức đảng giúp đỡ đảng viên thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mỗi đảng viên thực hiện nghị quyết của mình; kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của đảng viên, ngăn chặn phần tử cơ hội, phản động chui lọt, trà trộn vào nội bộ Đảng. Khi đảng trở thành Đảng cầm quyền, V. I. Lê-nin lại nhấn mạnh: “Chỉ những người chân thành đi theo chủ nghĩa cộng sản, chỉ những ai thành tâm trung thành với nhà nước công nhân, chỉ có những người lao động trung thực, chỉ có những đại biểu thật sự của quần chúng bị áp bức dưới thời chủ nghĩa tư bản, mới vào đảng được”(6) và khẳng định chỉ “những người thực sự trung thành với sự nghiệp giải phóng của nhân dân lao động” mới là nhân tố đủ tiêu chuẩn được kết nạp vào Đảng(7).

Từ quan điểm, chỉ dẫn trên của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về tư cách, tiêu chuẩn của người đảng viên cộng sản, có thể thấy:

Một là, tư cách, tiêu chuẩn của người đảng viên cộng sản là nét cơ bản của người đảng viên, dấu hiệu phân biệt rõ nhất giữa người đảng viên cộng sản với người không phải đảng viên cộng sản.

Hai là, tư cách, tiêu chuẩn của người đảng viên cộng sản có tính ổn định, được duy trì trong thời gian rất dài gắn với sự vận động, phát triển của Đảng, với các giai đoạn xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Ba là, có nhiều yêu cầu cụ thể về phẩm chất (chính trị, đạo đức, lối sống; phong cách, lề lối làm việc; trình độ, trí tuệ; ý thức tổ chức kỷ luật; uy tín trong tổ chức, uy tín với nhân dân,...). Tất cả được quy định bởi nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng, từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ở mỗi nước nước, bảo đảm đảng viên cùng chính đảng cộng sản thực hiện thắng lợi nhiệm vụ.

Bốn là, bảo vệ, gìn giữ, nâng cao, tăng cường về tư cách, tiêu chuẩn của người đảng viên cộng sản là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của các đảng cộng sản trên thế giới.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về tư cách, tiêu chuẩn người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa, vận dụng sáng tạo và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về đặc trưng, tiêu chuẩn của người đảng viên cộng sản phù hợp nhiệm vụ cách mạng Việt Nam. Trong suốt quá trình sáng lập, giáo dục, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta, Người luôn quan tâm đến phẩm chất đạo đức cách mạng, năng lực công tác, bản lĩnh chính trị và tính tiền phong, gương mẫu của người đảng viên, bảo đảm Đảng ta thực hiện thắng lợi nhiệm vụ thực tiễn đặt ra, xứng đáng là lực lượng ngày càng “tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”(8). Theo đó, Người chỉ rõ chất lượng đảng viên phải mang tính quyết định, “Đảng không phải chỉ cần con số cho nhiều, tuy nhiều là tốt, nhưng phải có cái chất của người đảng viên. Mỗi người đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu rằng: Mình vào Đảng để làm đày tớ cho nhân dân...”(9). Mục đích vào Đảng phải thật sự trong sáng, một lòng “phục vụ nhân dân, phục vụ giai cấp, làm đúng chính sách của Đảng, nếu không thì vào làm gì?”(10). “Cái chất” của người đảng viên là yếu tố cần chú trọng trau dồi, phát triển thường xuyên, bởi “Đảng viên và cán bộ cũng là người. Ai cũng có tính tốt và tính xấu”(11), do đó ai cũng sẽ có sai lầm và mặt cần phải cải thiện và không ngừng cố gắng phát huy mặt tích cực, sửa bỏ hạn chế, khuyết điểm.

Trong giai đoạn chuẩn bị thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định tư cách một người cách mệnh, rằng: 1- Đối với bản thân phải cần, kiệm, cả quyết sửa lỗi mình, không hiếu danh, hy sinh, ít lòng tham muốn về vật chất; 2- Đối với người, từng người thì khoan thứ, với đoàn thể thì nghiêm; 3- Đối với việc phải xem xét hoàn cảnh kỹ càng, quyết đoán, dũng cảm, phục tùng đoàn thể(12). Tư cách, tiêu chuẩn của người cộng sản còn thể hiện ở ý chí kiên định, một lòng vì nước vì dân, bản lĩnh, trí tuệ, không thể bị khuất phục trước cường quyền, bạo lực hay cám dỗ, bởi “một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”(13).

Khi Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền, nhiều khó khăn, thách thức đặt ra, đòi hỏi rất cao về tư cách của người đảng viên của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người đảng viên trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kiên trì phấn đấu vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, dân tộc, bởi “Chủ nghĩa của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin”(14) - nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng, rằng “Tư tưởng của Đảng là tư tưởng của giai cấp công nhân, nó đấu tranh cho lợi ích của toàn dân”(15). Trong công cuộc đấu tranh giành chính quyền, người đảng viên cộng sản là người khi “cần đến tính mạng của mình cũng phải vui lòng hy sinh cho Đảng”(16) và “sự nghiệp cách mạng là lâu dài, khó khăn và nguy hiểm. Nếu người cách mạng thiếu kiên trì và nhẫn nại, thì những khó khăn sẽ làm anh ta thối chí và sẽ đào ngũ giữa trận tiền”(17); bên cạnh đó, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải “đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình”(18).

Mặt khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác phát triển đảng viên, xem đây là một công tác quan trọng của xây dựng Đảng. Người quan niệm, phát triển đảng viên phải chú trọng vào chất lượng đảng viên hơn là số lượng. Người đảng viên cộng sản phải tiêu biểu về đạo đức cách mạng tích cực rèn luyện trau dồi, nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân; đồng thời, phải “học hiểu nghề nghiệp chuyên môn mà Đảng và Chính phủ giao cho mình phụ trách”(19) và “cố gắng học tập văn hóa, học tập khoa học và kỹ thuật(20). Người đảng viên cộng sản phải gắn bó mật thiết với nhân dân, bởi vì “rời khỏi Đảng, rời khỏi giai cấp thì cá nhân dù tài giỏi mấy, cũng nhất định không làm nên việc gì”(21) và phải luôn “sẵn sàng vui vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành của nhân dân”(22). Tích cực giữ gìn, xây dựng sự đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế; đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng với các tư tưởng, hành động sai trái, thù địch và chủ nghĩa cá nhân; mẫu mực về ý thức tổ chức, kỷ luật, chấp hành nghiêm kỷ luật đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; phải có ý thức phê bình và tự phê bình, rằng “Tự mình không đánh thắng được khuyết điểm của mình, mà muốn đánh thắng kẻ địch, tự mình không cải tạo được mình, mà muốn cải tạo xã hội, thì thật là vô lý”(23) và phải luôn nêu cao tinh thần theo đó, “Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa, và giúp đồng chí mình sửa chữa(24).

Luôn vững vàng trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ khi thành lập đến nay, Đảng ta đã luôn quan tâm đến việc xây dựng và phát triển đội ngũ đảng viên ngày càng tiêu biểu về năng lực, đạo đức, trách nhiệm. Thời gian qua, nhiệm vụ xây dựng, rèn luyện và phát triển đội ngũ đảng viên ở nước ta đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần vào công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố và giữ vững niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ. Hiện nay, tổng số đảng viên trong toàn Đảng khoảng trên 5,6 triệu đảng viên(25), một số lượng lớn chưa từng có trong lịch sử, khẳng định vị thế lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; phần lớn đội ngũ đảng viên nêu cao tinh thần trách nhiệm, có ý thức rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, tiên phong, gương mẫu, xây dựng mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Điều đó cho thấy chuyển biến tích cực trong công tác phát triển đảng viên, cả về số lượng, cơ cấu, chất lượng; đặc biệt là chuyển biến tích cực về tư cách, tiêu chuẩn của đảng viên, như bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống, tinh thần trách nhiệm, trình độ chuyên môn; có nhận thức đúng đắn về việc xây dựng tư cách, tiêu chuẩn của người đảng viên, định vị trách nhiệm của mình trước Đảng, trước nhân dân.

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, nhiều hạn chế trong công tác xây dựng và phát triển đội ngũ đảng viên vẫn hiện hữu, đặc biệt, Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16-1-2012, của Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, “Về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã gióng lên tiếng chuông báo động về hạn chế, tiêu cực trong công tác xây dựng Đảng, thậm chí có yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, biểu hiện rõ ở sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ rõ, “Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””(26); một bộ phận khác “chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới... Nhận thức về Đảng, động cơ phấn đấu vào Đảng của không ít đảng viên chưa đúng, không trong sáng. Cơ cấu đảng viên chưa hợp lý; tỷ lệ đảng viên trẻ chưa tương xứng với tiềm năng”(27). Đây là nhận định khách quan, toàn diện về một số hạn chế trong đội ngũ đảng viên hiện nay; cũng là quá trình tổng kết thực tiễn về tình hình đảng viên thời gian qua và xuất phát từ tinh thần khách quan, thẳng thắn, nhìn thẳng vào sự thật của Đảng.

Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng Trường trung học phổ thông Kim Liên, thành phố Hà Nội chúc mừng các đảng viên mới, ngày 25-3-2024_Ảnh: TTXVN

Xây dựng thế hệ đảng viên “vừa hồng, vừa chuyên” trong kỷ nguyên mới

Những năm qua, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(28). Tuy nhiên, trong bối cảnh thế giới đang có bước chuyển mạnh mẽ, nhanh chóng như vũ bão, dân tộc ta chuẩn bị bước vào kỷ nguyên vươn mình, mở ra nhiều cơ hội phát triển, đồng thời cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức đòi hỏi đội ngũ đảng viên của Đảng phải chuẩn bị cả về thể chất, tinh thần, nâng tầm trí tuệ và tư duy, góp phần làm cho dân tộc Việt Nam trỗi dậy mạnh mẽ, hiện thực hóa khát vọng “xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu”(29). Theo đó, để xây dựng thế hệ đảng viên “vừa hồng, vừa chuyên” trong kỷ nguyên mới, góp phần chuẩn bị kỹ lưỡng, tích lũy đủ thế và lực sẵn sàng cho sự phát triển bứt phá, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:

Thứ nhất, nghiêm túc quán triệt, thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng xây dựng nền đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, bảo đảm đất nước có được đội ngũ cán bộ, đảng viên uy tín, bản lĩnh, ngang tầm nhiệm vụ(30). Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy và đảng viên về nhiệm vụ xây dựng thế hệ đảng viên “vừa hồng, vừa chuyên” trong kỷ nguyên mới gắn với củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng. Thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân về tư cách, tiêu chuẩn của người đảng viên thời kỳ dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình, từ đó đề ra giải pháp, sách lược hành động đúng đắn, hiệu quả để nâng cao tư cách, tiêu chuẩn của từng đảng viên cũng như khả năng nghiên cứu, quán triệt đường lối, chủ trương, chính sách, chỉ thị, hướng dẫn, quy định của Đảng, của cấp trên về vấn đề liên quan đến công tác xây dựng đội ngũ đảng viên.

Thứ hai, nâng cao chất lượng công tác kết nạp đảng viên mới từ quần chúng ưu túChủ tịch Hồ Chí Minh từng nhắc nhở: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”(31). Nhờ làm tốt công tác kết nạp đảng viên mà Đảng ta đã không ngừng lớn mạnh, tăng thêm sinh lực, sức chiến đấu, trẻ hóa đội ngũ đảng viên, bảo đảm sự kế thừa và phát triển của Đảng như Người đã nhận xét: “nếu Đảng ta không biết chọn lọc, kết nạp, đề bạt đồng chí mới thì đâu có như ngày nay”(32). Kết nạp đảng viên là công tác rất quan trọng, gồm nhiều khâu, nhiều bước phức tạp, từ phát hiện, tạo nguồn, bồi dưỡng, giáo dục lý tưởng đến thực hiện quy trình kết nạp, phân công nhiệm vụ, bảo đảm có thể kết nạp vào Đảng quần chúng đáp ứng thực chất tiêu chuẩn của người đảng viên. Mặt khác, kết nạp đảng viên cần xác định chất lượng quan trọng hơn số lượng, rằng “phải xem công tác củng cố và phát triển đảng là một công tác quan trọng và thường xuyên. Và phải nắm vững phương châm phát triển Đảng là trọng chất hơn lượng”(33). Cấp ủy, người đứng đầu cần lựa chọn quần chúng thật sự xứng đáng để bồi dưỡng, kết nạp. Tổ chức đảng cấp trên cần đánh giá hiệu quả công tác phát triển Đảng thông qua nguồn lực của cơ sở đảng cấp dưới, tránh áp đặt chỉ tiêu máy móc, tạo áp lực số lượng mà kết nạp đủ chỉ tiêu.

Thứ ba, nêu cao tinh thần, trách nhiệm tự giáo dục, rèn luyện của đảng viên, đánh giá cao, tiềm năng trí tuệ của đội ngũ cán bộ trẻ, “khéo kết hợp cán bộ già với cán bộ trẻ. Không nên coi thường cán bộ trẻ”(34)Mỗi đảng viên phải không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời; chứng minh năng lực, phẩm chất, bản lĩnh chính trị của mình trong công tác và đời sống, tôn trọng, gìn giữ truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc. Tổ chức đảng phải thường xuyên giáo dục đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị, tư tưởng cho đảng viên bằng việc làm cụ thể, không hô hào khẩu hiệu chung chung, hướng đến hiệu quả thiết thực trong rèn luyện, phấn đấu nâng cao tư cách đảng viên. Thực hiện tốt Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 19-5-2024, của Bộ Chính trị, “Về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới” và Nghị định số 73/2023/NĐ-CP, ngày 29-9-2023, của Chính phủ, về “Quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”. Phải làm cho đạo đức cách mạng trở thành nét đặc trưng nổi bật, là tư cách, tiêu chuẩn của người đảng viên, là hồn cốt đạo đức của Đảng; đề cao tinh thần “nói đi đôi với làm”, “rèn luyện suốt đời”, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa”, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh(35).

Mỗi đảng viên phải tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao “sức đề kháng” để có thể vượt qua mọi khó khăn, thách thức, cám dỗ; đẩy lùi mọi nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tiếp tục quán triệt thực hiện tốt Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 16-6-2022, của Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, “Về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới”. Đội ngũ cán bộ phải hội đủ phẩm chất “6 dám” (dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung); đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh bùng nổ khoa học -
công nghệ, chuyển đổi số, hội nhập quốc tế sâu, rộng,... 

Thứ tư, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát, rà soát, sàng lọc để kịp thời đưa ra khỏi Đảng những đảng viên không còn đủ tư cách; phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của tập thể, cá nhân trong từng công đoạn giải quyết công việc và có chế tài xử lý nghiêm vi phạm kịp thời chấn chỉnh đối với đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ, đảng viên không thực hiện đúng quy định về chuyển sinh hoạt đảng, đảng viên vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật của Nhà nước, thiếu gương mẫu, uy tín thấp. Công tác sàng lọc, đưa ra khỏi Đảng đảng viên không còn đủ tư cách phải được thực hiện thường xuyên, kịp thời, chặt chẽ, tránh hình thức trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch. Phát huy vai trò của cấp ủy, chi bộ, đảng viên, nhất là vai trò của quần chúng nhân dân trong việc giám sát, phản biện, góp ý đối với hoạt động của Đảng theo đúng tinh thần “dựa vào dân để xây dựng Đảng”. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát về quá trình tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao tư cách đảng viên của đảng viên, nhanh chóng phát hiện, xử lý, ngăn chặn kịp thời khi có manh nha dấu hiệu vi phạm tư cách đảng viên.

Có thể nhận thấy, chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về  tư cách, tiêu chuẩn của người đảng viên có ý nghĩa rất quan trọng cho việc xây dựng thế hệ đảng viên “vừa hồng, vừa chuyên” trong kỷ nguyên mới của dân tộc. Đây là cơ sở lý luận, kinh nghiệm thiết thực, phong phú, không chỉ đặt ra yêu cầu cụ thể cho mỗi tổ chức cơ sở đảng trong việc giáo dục, rèn luyện xây dựng thế hệ đảng viên, nhất là đảng viên mới, mà còn giúp cho mỗi đảng viên nhận thức rõ hơn trách nhiệm của mình trong tu dưỡng, rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, cống hiến để thực sự là đảng viên “vừa hồng, vừa chuyên”, thực hiện tốt nhiệm vụ nặng nề, nhưng cũng rất vẻ vang của cách mạng nước nhà trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.

---------------

(1) Xem: C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Tuyển tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, t. 1, tr. 493
(2) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 614
(3), (4) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 17, tr. 481, 481
(5) V. I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 8, tr. 268
(6) V. I. Lê-nin: Toàn tậpSđd, t. 39, tr. 256
(7) V. I. Lê-nin: Toàn tậpSđd, t. 40, tr. 326
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 301
(9), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 15, tr. 292, 292
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 294
(12) Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 280 - 281
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 15, tr. 672
(14), (15) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 8, tr. 275, 275
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 5, tr. 291
(17) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 2, tr. 514 - 515
(18) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 11, tr. 603
(19) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 8, tr. 278 - 279
(20) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 12, tr. 420
(21) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 11, tr. 607
(22) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 7, tr. 50
(23) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 82
(24) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 273
(25) Xem: Ban Tổ chức Trung ương: Báo cáo kết quả công tác tổ chức xây dựng Đảng năm 2024; phương hướng, nhiệm vụ năm 2025
(26) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 92
(27) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 157 - 158
(28) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 322
(29) Tô Lâm: “Một số nhận thức cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, số 1.050 (tháng 11-2024), tr. 3
(30) Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16-1-2012, của Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012, của Ban Bí thư, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”; Quy định số 214-QĐ/TW, ngày 2-1-2020, của Bộ Chính trị, về “Khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý”; Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá””; Quy định số 37-QĐ/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về những điều đảng viên không được làm”; Nghị định số 73/2023/NĐ-CP, ngày 29-9-2023, của Chính phủ, về “Quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”,...
(31) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 113
(32) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 276
(33) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 193
(34) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 278
(35) Xem: Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 233

Quan điểm, chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác-Lê-nin về tư cách, tiêu chuẩn của người đảng viên cộng sản Tư cách của một người được phản ánh thông qua tinh thần, thái độ, ý chí, cách thức giao tiếp, ứng xử trong các mối quan hệ cũng như trong giải quyết công việc. Tư cách cũng có thể được nhìn nhận như khí chất, bản chất, chất lượng, đặc trưng của mỗi cá nhân, là một loại sức hút vô hình toát ra từ nội tâm và phong thái mà ở mỗi người có sự khác nhau. Trong quá trình thành lập, hoạt động và phát triển của các đảng cộng sản, thúc đẩy cách mạng vô sản, vấn đề quan trọng được C. Mác, Ph.Ăng-ghen luôn quan tâm đó là chỉ rõ cơ sở lý luận và kiểm nghiệm trong thực tiễn vấn đề về p

Tin khác cùng chủ đề

Dự thảo Báo cáo chính trị của BCH Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa khóa XVII trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2020 - 2025
"Bộ tứ trụ cột" khơi thông mạch nguồn  thể chế  để thực hiện hóa khát vọng  vươn mình của dân tộc
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - kết quả sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mac - Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam
Xử lý mối quan hệ dân tộc - giai cấp qua Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Chính phủ Việt Nam "Bản lĩnh, Kỷ cương, Đoàn kết, Liêm chính, Hành động, Sáng tạo, Hiệu quả và Vì Nhân dân"
Từ độc lập, tự do đến khát vọng hùng cường

Gửi bình luận của bạn