Giá trị Hồ Chí Minh là toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng của Người, đã góp phần tích cực kiến tạo diện mạo của thời đại đấu tranh cho hòa bình, phi thực dân hóa, tiến bộ xã hội, bắt đầu từ thế kỷ XX và hiện nay nhân loại đang tiếp tục tiến bước trong một xu thế toàn cầu hóa phức tạp với sự hợp tác, hữu nghị và phát triển giữa các dân tộc. Giá trị đó là sản phẩm của dân tộc Việt Nam và cũng là sản phẩm của thời đại, có ý nghĩa dân tộc và quốc tế.

Giá trị Hồ Chí Minh với sự phát triển thời đại
Giá trị Hồ Chí Minh với sự phát triển thời đại

1. Thời đại tạo nên giá trị Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh sống trong hoàn cảnh đặc biệt khi đất nước Việt Nam bị xâm lược, bị biến thành thuộc địa của thực dân Pháp. Trong hoàn cảnh đó, Hồ Chí Minh là người đằm mình trong các sự kiện trọng đại nhất của dân tộc và của các biến cố trên thế giới. Người đã để lại nhiều dấu ấn tích cực, quan trọng cho quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam và quá trình phát triển văn minh tiến bộ của nhân loại. Giá trị Hồ Chí Minh, bao gồm cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng của Người, là tài sản tinh thần từ sự phát triển của dân tộc Việt Nam đồng thời cũng là từ quá trình tiến hóa xã hội của loài người từ thế kỷ XX trở đi.

Hồ Chí Minh có quãng thời thanh thiếu niên ở trong nước 20 năm, từ 10 năm cuối thế kỷ XIX sang 10 năm đầu thế kỷ XX. Đây cũng là thời gian CNTB đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn ĐQCN. Thế giới chưa phân chia xong lợi quyền giữa các nước tư bản thực dân. Mâu thuẫn giữa các nước này gay gắt tới mức dẫn tới Thế chiến I để chia lại thuộc địa. Hệ thống thuộc địa đã bao trùm lên hầu như tất cả các nước nhỏ yếu bị xâm chiếm ở châu Á, châu Phi, khu vực Mỹ latinh.

Cơ cấu kinh tế-xã hội của các nước thuộc địa hầu như không khác gì so với các “chính quốc”. Chúng giống nhau ở bản chất chủ nghĩa thực dân, có khác thì chỉ là ở mức độ, hình thức biểu hiện. Tình cảnh của người dân lao động ở các thuộc địa thật sự điêu đứng bởi chế độ chính trị hà khắc, sự bóc lột kinh tế thậm tệ, sự nô dịch về văn hóa nặng nề; có nhiều nơi còn bị cộng hưởng của tệ phân biệt chủng tộc.

Hoàn cảnh đó thường xuyên đập vào mắt người thanh thiếu niên yêu nước Nguyễn Sinh Cung-Nguyễn Tất Thành-Nguyễn Ái Quốc (trong bài viết này, từ đây gọi chung là Hồ Chí Minh) lúc ở quê hương, lúc ở kinh thành Huế rồi trải suốt chiều dài hành trình tìm đường cứu nước. Hồ Chí Minh đã có sự đồng cảm, sẻ chia với những người bị áp bức. Khi xem triển lãm ở Ý, Hồ Chí Minh tự tổng kết rằng, trên thế giới này, dù màu da có khác nhau, nhưng chỉ có hai loại người mà thôi: loại người đi áp bức và loại người bị áp bức. Hồ Chí Minh khảm những cảm nhận đó vào rất nhiều trang viết tố cáo chủ nghĩa thực dân, đồng cảm và bênh vực những người lao động ở tất cả các châu lục. Hình ảnh tiều tụy của những người đi phu Cửa Rào từ quê hương xứ Nghệ, cảnh những người lao động da đen bị đối xử như nô lệ, bị chủ tàu bắt nhảy xuống biển khi sóng to bão lớn tại biển Đắcca (châu Phi) để cứu hàng hóa, những cảnh hành hình kiểu Linsơ ở nhiều thuộc địa, v.v.. mà Hồ Chí Minh đã chứng kiến rồi ghi lại một cách rất ấn tượng trong những trang viết của mình.

Thời đại mới với mâu thuẫn gay gắt giữa nhân dân các nước thuộc địa với thực dân; giữa lao động với tư sản càng làm cho yêu cầu giải phóng khỏi ách áp bức tư bản đế quốc càng thêm khẩn thiết. Yêu cầu đó làm bứt lên tư duy và hành động cho Hồ Chí Minh tự dấn thân vào những chặng đường cam go tìm kiếm phương sách giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.

Được rèn luyện qua các lò lửa cách mạng, Hồ Chí Minh hội đủ những phẩm chất, tư tưởng, tâm lý xã hội của giai cấp công nhân. Quá trình này, thông thường đối với một người phải là trải qua hàng chục năm thực thụ làm người công nhân. Nhưng, Hồ Chí Minh không phải là công nhân trong một cơ sở công nghiệp nào đó của nhà tư sản. Từ một học sinh yêu nước, Hồ Chí Minh làm nhiều nghề, trong đó có lao động chân tay rồi trở thành người hoạt động chính trị chuyên nghiệp. Nhưng, Hồ Chí Minh đại diện và phản ánh được tâm trạng, tình cảm, nguyện vọng, lý tưởng, mục tiêu đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam và thế giới. Kết quả này là từ chính bản thân Hồ Chí Minh, nhưng cũng phải nói rằng, đó là do sự tác động của thời đại.

Điều này khác hẳn với nhận định của một số nhà khoa học phương Tây khi muốn tách môi trường ở những nước TBCN những năm 20-30 thế kỷ XX khỏi cuộc sống của Hồ Chí Minh, và nhấn mạnh tới tư tưởng của Hồ Chí Minh là do tác động/ấn định từ CNCS theo Quốc tế III. Điều kiện quốc tế, chủ yếu là phong trào đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa đã ảnh hưởng, tác động mạnh mẽ đến sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. 9 năm, kể từ khi Người rời bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước (5-6-1911) đến Đại hội Tours ở Pháp (12-1920) là quãng thời gian cực kỳ quan trọng, đó là sự dấn thân vào môi trường yêu nước-cách mạng. Trở thành người cộng sản ở Đại hội Tours chỉ như là cái dấu mốc tất yếu trên đường đi của Hồ Chí Minh. Thực tế quan trọng này của Người phải kể đến ảnh hưởng vô cùng sâu sắc của thắng lợi Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và một người đứng đầu lãnh đạo cuộc cách mạng đó là V.I.Lênin. Đây là lý do tại sao những bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh về V.I.Lênin toát lên một cách đậm nét tình cảm chan chứa yêu thương, kính trọng của Người đối với V.I.Lênin.

Ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười Nga, đặc biệt là cảm hứng được khơi nguồn từ Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin, đã kích hoạt thêm ý chí yêu nước và cách mạng của Hồ Chí Minh đi theo CNCS. Nhiều nhà hoạt động chính trị và không ít người nghiên cứu Hồ Chí Minh theo lập trường tư sản phương Tây tỏ ý tiếc rằng, Hồ Chí Minh là người yêu nước tuyệt vời như vậy nhưng giá như đừng là người cộng sản thì hay biết mấy. Hoặc lại có ý kiến cho rằng, Hồ Chí Minh là người cộng sản kiểu dân tộc chủ nghĩa. Khi nhận định như vậy, những người này đã tách rời chủ nghĩa yêu nước và CNCS; đem tư tưởng dân tộc chân chính đối lập tư tưởng cộng sản.

Thực tế cuộc đời Hồ Chí Minh đã cải chính cho nhận định đó: Hồ Chí Minh gắn chủ nghĩa yêu nước với CNCS, gắn tư tưởng dân tộc/hoặc chủ nghĩa dân tộc chân chính với tư tưởng cộng sản/CNCS. Trong cuộc đời của Hồ Chí Minh, giữa yêu nước với cộng sản, giữa dân tộc với cộng sản không phải là nấc thang tiến hóa từ thấp lên cao, mà đó là sự hội nhập/kết hợp/tổng hòa, không có ranh giới. Điều này càng giải thích tại sao không ít người nghiên cứu Hồ Chí Minh có lúc không biết được Người đứng trên lập trường dân tộc yêu nước hay đứng trên lập trường cộng sản. Thậm chí, sự tinh túy của văn hóa quốc tế thấm vào Hồ Chí Minh mà nhiều người thấy rất thú vị: ở trong con người Hồ Chí Minh có dáng dấp của Giêsu, của Thích Ca Mâu Ni, của Khổng Tử, của Tôn Dật Tiên, của V.I.Lênin, của Các Mác, của Mahatma Gandhi, v.v.. Nhưng, lạ thay, ở Hồ Chí Minh không có con số cộng tư tưởng của các vị đó, mà Hồ Chí Minh đã “chưng cất” được từ những viên ngọc tư tưởng tiến bộ trên thế giới, làm giàu, làm tăng tri thức và bản lĩnh cho mình.

Hồ Chí Minh biết về Cách mạng Tháng Mười Nga khi từ Anh trở lại Pháp năm 1917 sau cuộc hành trình dài qua nhiều châu lục, thấy rõ bản chất, mức độ và cách thức áp bức, bóc lột của thực dân cũng như cảm nhận trực tiếp, sâu sắc về tình cảnh cũng như sức mạnh của những người lao động bị áp bức. Sống trong lòng các nước TBCN, Hồ Chí Minh kết hợp cảm tính với lý tính để có được tư duy lý luận sâu sắc hơn về thời cuộc. Việc Hồ Chí Minh đến với những tư tưởng của V.I.Lênin và chịu ảnh hưởng sâu sắc của Cách mạng Tháng Mười chính là kết quả tất yếu của những gì mà Người đã đi và nghiên cứu, khảo sát, chiêm nghiệm.

Tư duy nhận thức về Cách mạng Tháng Mười của Hồ Chí Minh so với những người đương thời lúc đó không phải ai cũng có. Khi Cách mạng Tháng Mười nổ ra, có nhiều người biết tin. Đã có khoảng 80.000 người Việt Nam bị Pháp bắt đi lính cho Pháp đưa sang Pháp để đánh Đức cũng biết về Cách mạng Tháng Mười. Một số nhà cách mạng ở châu Á cũng biết về cuộc cách mạng này, như Tôn Trung Sơn của Trung Quốc, Phan Bội Châu của Việt Nam, v.v.. Tôn Trung Sơn có cảm tình với Cách mạng Tháng Mười và đề ra chính sách “Liên Nga, liên cộng, ủng hộ công nông” (sau này người kế tục Tôn Trung Sơn là Tưởng Giới Thạch phản bội tư tưởng này của ông). Còn Phan Bội Châu thì từ năm 20 thế kỷ XX đã nảy ra ý định muốn nghiên cứu CNXH, nhưng rồi trong quãng đời còn lại, với nhiều lý do, đã không đến được với tư tưởng của Cách mạng Tháng Mười.

Những sự kiện ken dày của thế giới, mà nổi lên hơn cả là những sự kiện phong trào đấu tranh chống thực dân, chống chủ nghĩa phát xít, các phong trào dân chủ tiến bộ ở ngay trong lòng các nước TBCN đã ảnh hưởng sâu sắc đến Hồ Chí Minh, làm cho Người trở thành sứ giả có tầm nhìn xa, rộng về sự phát triển hòa bình, hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc.

2. Hồ Chí Minh tác động đến thời đại

Từ tình cảm dân tộc, Hồ Chí Minh đi đến ý thức đoàn kết giữa các dân tộc bị áp bức, đoàn kết giữa giai cấp công nhân các thuộc địa với giai cấp công nhân ở các “chính quốc”. Với ý thức ấy, Hồ Chí Minh đã góp phần to lớn xây dựng một mặt trận thống nhất của nhân dân lao động các nước tư bản và nhân dân các nước thuộc địa đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức. Hồ Chí Minh đã thấm nhuần và đưa ra thực hành quan điểm của V.I.Lênin về mối quan hệ chặt chẽ giữa phong trào cách mạng ở phương Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở thuộc địa và hiểu một cách đúng đắn rằng, cách mạng ở phương Tây muốn thắng lợi thì phải liên hệ chặt chẽ với phong trào chống chủ nghĩa thực dân ở các nước thuộc địa và các nước bị nô dịch; vấn đề dân tộc chỉ là một bộ phận của cách mạng vô sản. Điều này không chỉ là sự tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin của Hồ Chí Minh mà còn là đóng góp lớn về lý luận đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.

Thời đại làm cho Hồ Chí Minh nhận thức được những quy luật chưa được biểu hiện và chưa được nhận thức đầy đủ trong thời C.Mác-Ph.Ăngghen, V.I.Lênin. Hồ Chí Minh đã nhận thức đúng về mối quan hệ giữa cách mạng vô sản ở “chính quốc” với phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, không cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa lệ thuộc vào cách mạng vô sản ở “chính quốc”. Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng, cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có thể nổ ra trước và khi giành thắng lợi lại giúp cho cách mạng vô sản ở “chính quốc” có nhiều điều kiện thuận lợi để thành công. Người nhấn mạnh rằng, cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa chính là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản; muốn thủ tiêu chủ nghĩa thực dân thì đừng “đánh rắn đằng đuôi” mà phải đánh vào đầu - đầu ở đây chính là chế độ thực dân ở thuộc địa, nơi thế lực thực dân hằng ngày hút máu để nuôi sống “con đỉa có hai cái vòi”.

Sở dĩ có những quan điểm đúng đắn như vậy là vì Hồ Chí Minh đã thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin, đưa vào vận dụng trong thực tế đấu tranh của các dân tộc thuộc địa mà Người tham gia. Hội Liên hiệp thuộc địa do Hồ Chí Minh thành lập năm 1921 tại Pháp là một hình thức tổ chức đầu tiên thể hiện sự đoàn kết quốc tế của các dân tộc bị áp bức, đấu tranh giải phóng dân tộc mỗi nước. Hội đã tập hợp được nhiều người trước đây là thành viên của các tổ chức yêu nước ở từng nước. Đây là sự thức tỉnh của Hồ Chí Minh đối với tiềm năng của các dân tộc thuộc địa, giống như nhân dân các dân tộc Đông Dương giấu một cái gì đấy đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến.

Báo Le Paria do Hồ Chí Minh làm chủ bút, đã góp phần tích cực thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc, thực hiện mục đích, tôn chỉ nêu trong số đầu tiên ngày 1-4-1922 rằng, báo tố cáo sự lạm quyền về chính trị, độc đoán về hành chính, bóc lột về kinh tế mà nhân dân trên các lãnh thổ rộng lớn ở hải ngoại là nạn nhân; báo kêu gọi họ đoàn kết đấu tranh cho sự tiến bộ về vật chất và tinh thần của chính họ, cổ vũ họ tổ chức lại với mục đích giải phóng những người bị áp bức khỏi những lực lượng thống trị, thực hiện tình yêu thương và hữu ái.

Năm 1925, Hồ Chí Minh cùng một số nhà cách mạng Trung Quốc thành lập tổ chức Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức. Hội này tập hợp các nhà yêu nước Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên, Miến Điện, Inđônêxia, v.v.. để cùng nhau làm cách mạng như tôn chỉ mà Hội đã đề ra.

Hoạt động quốc tế phong phú của Hồ Chí Minh, đã cho thấy rằng, Hồ Chí Minh là một trong những người hoạt động tích cực nhất theo đúng tư tưởng của V.I.Lênin và của Quốc tế Cộng sản với khẩu hiệu của Đại hội Bacu sau Đại hội II Quốc tế Cộng sản: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”. Trên các diễn đàn quốc tế, ngay cả diễn đàn của Đại hội V Quốc tế Cộng sản năm 1924, Hồ Chí Minh đã phê phán một cách gay gắt thái độ thờ ơ của một số đảng cộng sản đối với cách mạng của các dân tộc thuộc địa.

Hồ Chí Minh đã xác định con đường đúng đắn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và nêu một tấm gương sáng, những bài học quý giá cho cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do cho nhiều dân tộc trên thế giới. Những người theo chủ nghĩa chống cộng luôn luôn tìm cách hạ thấp ảnh hưởng của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga. Các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản, những phần tử cải lương, xét lại hiện đại, những thế lực phản động, v.v.. ra sức chứng minh “tính không hợp quy luật” của Cách mạng Tháng Mười Nga. Chúng xuyên tạc, bôi xấu, vẽ cuộc cách mạng này như một con “ngáo ộp” để hù dọa nhân dân tiến bộ trên thế giới, làm cho nhân dân tiến bộ trên thế giới hiểu sai và xa rời cuộc cách mạng này. Nghiên cứu lịch sử phong trào cộng sản quốc tế, chúng ta càng thấy vai trò quan trọng của Hồ Chí Minh trong việc truyền bá và thực hiện một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam và nhiều nước khác trên cương vị cán bộ của Quốc tế Cộng sản. Đối với Cách mạng Tháng Mười, Hồ Chí Minh nêu lên cho các dân tộc thuộc địa con đường giải phóng mà cuộc cách mạng này đã mở ra.

Nhân dân thế giới, trong đó đặc biệt là nhân dân các nước thuộc địa, nhìn thấy ở Hồ Chí Minh một nhà tư tưởng, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, không chỉ giúp họ sáng tỏ về mặt lý luận, mà còn nêu một tấm gương sáng trong thực tiễn đấu tranh. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là niềm tự hào của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, cổ vũ phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc và đấu tranh vì tiến bộ xã hội.

Một tác động, ảnh hưởng của giá trị Hồ Chí Minh đối với thời đại là tính nhân văn của Người. Bản chất nhất của tính nhân văn Hồ Chí Minh là giải phóng con người, làm cho con người thoát khỏi mọi áp bức, bất công, làm cho con người đạt tới tự do sống trong cuộc sống tốt đẹp, chan hòa tình thương yêu, hữu ái giữa người với người, tôn vinh cái thiện và chống cái ác. Tính nhân văn Hồ Chí Minh nảy sinh trong cuộc đấu tranh cho độc lập, tự do, tiến bộ xã hội, gắn liền với cuộc đấu tranh chung của toàn nhân loại vì mục tiêu tiến bộ xã hội. Sự cống hiến của Hồ Chí Minh đối với văn minh nhân loại trước hết là ý thức đấu tranh tự giải phóng. Hồ Chí Minh không dừng lại ở sự cảm thông, mà cao hơn, Người còn hành động tích cực và cuốn hút hàng triệu người trên thế giới cùng hành động với mình, đấu tranh cho phẩm giá con người. Hồ Chí Minh đã vạch trần sự giả dối của chủ nghĩa thực dân, lôi ra ánh sáng bản chất ăn cướp và nô dịch của nó, thức tỉnh người lao động ở các thuộc địa cũng như trên toàn thế giới, tổ chức lực lượng để đấu tranh chống lại nó.

3. Giá trị Hồ Chí Minh đối với giai đoạn hiện nay của thế giới

Thế giới trong vòng gần 40 năm nay có sự biến chuyển lớn, nhanh chóng và khó lường. Đó là một thế giới phức tạp, có sự chuyển mình vươn lên cuộc sống tốt đẹp, nhưng đó cũng là một thế giới còn đầy những sự phản tiến bộ của các thời kỳ trước chưa khắc phục được chuyển sang và đồng thời cũng nảy sinh những cái xấu xa mới. Trong một thế giới như vậy, không khó để nhận ra những giá trị phát triển mà quá khứ và những danh nhân để lại. Giá trị Hồ Chí Minh không lạc hậu với cuộc sống đó của thế giới, nói như Đại tướng Võ Nguyên Giáp thì  “Thế giới sẽ còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi”1. Đó là một thực tế hiện hữu không ai có thể bác bỏ được.

Thực thể của CNXH hiện thực không còn nhưng nó vẫn minh chứng cho một lý luận phát triển rằng, nhân loại sẽ vẫn tiến bước, trong sự tiến bước có phần hỗn mang đó, cuối cùng loài người sẽ tiến đến CNXH. Đó cũng là niềm tin có cơ sở khoa học và cách mạng. CNTB đang có và còn sẽ có tiềm năng để phát triển, nhưng xét về tương lai lâu dài, đó không là cái đích đến của xã hội loài người vươn tới. Xã hội TBCN vẫn là xã hội đầy áp bức bất công, mà có lúc, có nơi được sửa chữa bằng chính sách của chính phủ này, chính phủ nọ, của đảng cầm quyền này, của đảng cầm quyền kia. Dù có sửa chữa và dù có tiềm năng phát triển như thế nào đi nữa, thì về bản chất, nó không đại diện cho quy luật phát triển của thế giới. Trái đất này vẫn còn quá nhiều vũ khí khủng khiếp, quá nhiều xung đột, lại bị thao túng bởi kỹ thuật dân chủ lấy phiếu ủng hộ của các thế lực đen tối. Thế giới đang có cả những tiến bộ thật sự, có cả những anh minh, nhưng thế giới cũng đang có cả những điều tồi tệ, xấu xa. Thế giới đang phải chịu những hậu quả nặng nề bởi sự biến đổi khí hậu, nước biển dâng, El Nino, La Nila, của các thiên tai khủng khiếp, dịch bệnh toàn cầu, v.v..

Thế giới càng ngày càng đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu mà không thể giải quyết những vấn đề đó một cách đơn lẻ. Mỗi một dân tộc đều có vai trò quan trọng. Có thể có nước lớn và có nước nhỏ, nhưng, nhỏ hay lớn đó có khi chỉ nặng về quy mô diện tích, dân số, khối lượng được đo bằng USD của nền kinh tế, của GDP/đầu người. Trong thế giới ngày nay, càng trở lại với giá trị Hồ Chí Minh về sự đóng góp tích cực của từng dân tộc vào cái chung của nhân loại. Một dân tộc nào cũng phải làm cái nhiệm vụ nhận và cho đối với sự phát triển của thế giới. Nhận và cho ở đây không thể đo bằng khối lượng vật chất mà là ở giá trị văn hóa phát triển.

Những quan điểm của Hồ Chí Minh đã được Người tổ chức thực hiện ở trên đất nước Việt Nam, như vấn đề chiến tranh và hòa bình, vấn đề chủ quyền quốc gia, vấn đề tự chủ, vấn đề con người nhân sinh, trong đó có cả vấn đề quyền con người, vấn đề môi trường sinh thái, vấn đề giải phóng phụ nữ, vấn đề y tế... Mỗi khi thế giới gặp vấn đề gì đó có liên quan, người ta thấy đều đã có ở giá trị Hồ Chí Minh từ rất sớm.

Một số người cho rằng, giá trị Hồ Chí Minh chỉ có giá trị trong phạm vi hẹp; rằng, không có danh hiệu “Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa thế giới”. Theo chúng tôi, Hồ Chí Minh chính là danh nhân văn hóa trong không gian UNESCO của Liên hợp quốc, một tổ chức bao gồm hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Nghị quyết của Khóa họp lần thứ 24 năm 1987 Đại Hội đồng UNESCO tại Paris đã đặt Hồ Chí Minh vào đoạn viết mặc định kỷ niệm ngày sinh (năm chẵn trăm) của “các nhân vật trí thức lỗi lạc và các danh nhân văn hóa trên phạm vi quốc tế góp phần thực hiện các mục tiêu của UNESCO và đóng góp vào sự hiểu biết trên thế giới”2.

Giá trị Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục có ý nghĩa soi sáng trên bước đường phát triển của nhân loại ở một thế giới đầy biến động; là hiện thân của những điều tốt đẹp, do đó, được những người tiến bộ trên thế giới tôn vinh, có trong tình cảm và trong hành động của họ. Những giá trị Chân-Thiện-Mỹ nhân loại luôn đồng dạng với cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh.

  

Bài đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng (in), số 5/2020

1. Tiêu đề bài phát biểu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thay mặt Chính phủ Việt Nam, ngày 14-1-1991, tại Hội nghị Quốc tế “Hồ Chí Minh-Việt Nam-Hòa bình thế giới” tổ chức tại thành phố Cancútta (Ấn Độ) nhân Kỷ niệm lần thứ 100 Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh-Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, Nhà văn hóa kiệt xuất

2. Hồ sơ biên bản của Khóa họp 24 năm 1987 của UNESCO (in trong sách Mạch Quang Thắng, Bùi Đình Phong, Chu Đức Tính (Đồng Chủ biên): UNESCO với sự kiện tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh-Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất, Nxb CTQG, H, 2013) đã dẫn nguyên văn bằng 6 ngôn ngữ chính thức mà UNESCO sử dụng.

GS, TS MẠCH QUANG THẮNG

 

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1. Thời đại tạo nên giá trị Hồ Chí Minh Hồ Chí Minh sống trong hoàn cảnh đặc biệt khi đất nước Việt Nam bị xâm lược, bị biến thành thuộc địa của thực dân Pháp. Trong hoàn cảnh đó, Hồ Chí Minh là người đằm mình trong các sự kiện trọng đại nhất của dân tộc và của các biến cố trên thế giới. Người đã để lại nhiều dấu ấn tích cực, quan trọng cho quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam và quá trình phát triển văn minh tiến bộ của nhân loại. Giá trị Hồ Chí Minh, bao gồm cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng của Người, là tài sản tinh thần từ sự phát triển của dân tộc Việt Nam đồng thời cũng là từ quá trình tiến hóa xã hội của loài người từ thế kỷ XX trở đi. Hồ Chí Minh có quãng thời thanh thiếu ni&ec

Tin khác cùng chủ đề

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tận tụy, liêm, chính theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Xây dựng xã hội học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Quét sạch chủ nghĩa cá nhân để phòng, chống suy thoái
Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về chống “giặc nội xâm” đến cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong thời kỳ đổi mới
Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về làm gương, nêu gương và noi gương của cán bộ, đảng viên và giải pháp thực hiện
Nội dung xây dựng Đảng về đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng

Gửi bình luận của bạn