Trong thời kỳ đổi mới, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được Đảng ta vận dụng sáng tạo. Bài viết phân tích, làm rõ những nội dung cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, sự vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người trong thời kỳ đổi mới và xác định một số yêu cầu tiếp tục nghiên cứu, vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa hiện nay. 

 

Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thời kỳ đổi mới
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thời kỳ đổi mới
Nông dân xã Ái Quốc, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương báo cáo kết quả sản xuất với Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngày 31-5-1957)_Nguồn: hochiminh.vn

1. Mở đầu

Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng, soi đường cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một trong những nội dung cốt lõi và xuyên suốt trong hệ thống tư tưởng của Người đó là quan điểm về nền dân chủ mới - dân chủ XHCN - nền dân chủ do nhân dân làm chủ, vì lợi ích của nhân dân và do nhân dân quyết định. Tư tưởng này thể tính nhân văn sâu sắc và chỉ dẫn thực tiễn trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.

2. Nội dung

2.1. Nội dung cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

Thứ nhất, về địa vị của nhân dân và bản chất của dân chủ XHCN

Theo Hồ Chí Minh, dân chủ và bản chất của nền dân chủ XHCN là hai nội dung cốt lõi, gắn bó chặt chẽ với nhau và xuyên suốt trong quá trình xây dựng nhà nước, phát triển xã hội. Bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân; là quyền làm chủ của nhân dân và địa vị cao nhất là nhân dân. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là mốc son lịch sử của dân tộc, nước Việt Nam từ một thuộc địa trở thành nước độc lập, tự do và dân chủ; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. 

Theo Hồ Chí Minh, chế độ dân chủ nhân dân, dân chủ mới, dân chủ XHCN hoàn toàn khác về chất so với chế độ dân chủ tư sản. Bởi vì, trong chế độ mới, “địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”(1). Dân “là chủ” tức là nói tới vị thế của người dân trong một nước dân chủ. Người nhấn mạnh: “chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ”(2), “chính quyền dân chủ có nghĩa là chính quyền do người dân làm chủ”(3).

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, bản chất dân chủ XHCN là nhân dân trở thành chủ thể có ý thức của lịch sử, thực hiện vai trò làm chủ một cách tự giác, tích cực, chủ động trên cơ sở nhận thức và hành động theo quy luật khách quan để nâng cao năng lực làm chủ, “biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”(4), “có quyền làm, có quyền nói”(5).

Bản chất dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở quyền hạn và nghĩa vụ, lợi ích và trách nhiệm. Dân chủ là có quyền làm, quyền nói, quyền tự do tư tưởng để tìm ra chân lý, mà chân lý ở đây là những điều có lợi cho Tổ quốc và nhân dân. Khi tìm ra chân lý thì “quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý”(6). Do vậy, chỉ có trong chế độ dân chủ XHCN thì vai trò, vị trí, giá trị của nhân dân mới được phát huy với đầy đủ trí dân, sức dân, lòng dân, quyền dân.

Thứ haibảo đảm các lợi ích thực tế của dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội

Bảo đảm các lợi ích của con người về các mặt dân sinh, dân trí là hiện thực hóa quyền làm chủ của nhân dân trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… Hồ Chí Minh chỉ rõ, khi nhân dân lao động là những người làm chủ thì “chúng ta có quyền và có đủ điều kiện để tự tay mình xây dựng đời sống tự do, hạnh phúc cho mình. Nhân dân lao động là những người chủ tập thể của tất cả những của cải vật chất và văn hóa, đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ”(7). Và “chỉ ở trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình. Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”(8). Theo đó, dân chủ phải được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực:

Trong chính trị, nền chính trị vừa có tính pháp lý, vừa có tính nhân văn, thực sự của dân, do dân và vì dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành cả cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của mình để hiện thực hóa quyền lực thuộc về nhân dân. Bởi hơn ai hết, Người hiểu rằng: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao thì quyền giao cho dân chúng số nhiều chớ để trong tay một bọn ít người”(9).

Trong kinh tế, Người quan tâm thực hành dân chủ với nhiều thành phần kinh tế, đa dạng các hình thức sở hữu để kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, giải phóng sức lao động để thực hiện dân chủ thực chất hơn. Người lao động “từ làm chủ tư liệu sản xuất, họ phải được làm chủ việc quản lý kinh tế, làm chủ việc phân phối sản phẩm lao động”(10)Bên cạnh đó, việc giải quyết một cách thấu tình đạt lý trong phân phối sản phẩm luôn được Người chú trọng:“Phân phối phải theo mức lao động. Lao động nhiều thì được phân phối nhiều, lao động ít thì phải phân phối ít”(11)nhưng cũng phải quan tâm đến những người yếu thế trong xã hội như người già, trẻ em...

Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, văn hóa - xã hội không thể phát triển tách rời quần chúng; mọi chính sách phải hướng đến việc nâng cao đời sống tinh thần và vật chất cho nhân dân, đặc biệt là tầng lớp lao động. Phải làm sao để: “Văn hóa phải thiết thực phục vụ nhân dân, góp phần vào việc nâng cao đời sống vui tươi, lành mạnh của quần chúng”(12). Người đề cao vai trò của giáo dục và y tế; chú trọng giáo dục đạo đức, lối sống,… trong quá trình xây dựng con người mới XHCN để mỗi người sống có lý tưởng, trách nhiệm, vì cộng đồng.

Thứ ba, các điều kiện, biện pháp thực hành dân chủ 

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn xây dựng nhà nước Việt Nam để bảo đảm nền dân chủ XHCN, cần đáp ứng một số điều kiện và triển khai các biện pháp cụ thể như sau:

Dân chủ gắn với kỷ cương, pháp luật. Đây là quan điểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa quyền làm chủ của nhân dân và sự quản lý của Nhà nước. Dân chủ là mục tiêu và động lực của chế độ XHCN - nơi quyền lực thuộc về nhân dân. Tuy nhiên, dân chủ không có nghĩa là không có giới hạn hoặc tự do tuyệt đối. Bảo đảm quyền làm chủ nhất thiết phải trong khuôn khổ pháp luật, nếu vượt ra khỏi khuôn khổ pháp luật thì sẽ trở thành phản dân chủ, dân chủ quá trớn, là vi phạm dân chủ.

- Nâng cao trình độ dân chủ của các chủ thể. Đây là một yêu cầu quan trọng trong quá trình thực hành nền dân chủ. Các chủ thể tham gia vào quá trình thực hành dân chủ gồm người dân, cán bộ, công chức, tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan nhà nước… cần phải có trình độ dân chủ nhất định. Trình độ dân chủ không chỉ là dân trí mà còn là sự hiểu biết nhiều phương diện và xa hơn là ý thức tự giác và năng lực sáng tạo: “mọi người cần phải hăng hái làm tròn nghĩa vụ của mình trong mọi công việc kháng chiến cứu quốc, xây dựng nước nhà”(13), song đó là một quá trình lâu dài, gian khổ, nên trước hết làm cho nhân dân hiểu: “Vì ở nước ta, chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ… Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ”(14)Phải ra sức học tập, có học tập, có trình độ thì mới hình thành nên ý thức vươn tới cái tiến bộ, để nhận thức rõ hơn việc thực hiện quyền dân chủ của mình và trách nhiệm của một người công dân với đất nước.

- Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt NamĐây là điều kiện tiên quyết để xây dựng nền dân chủ của nhân dân, bảo đảm quá trình dân chủ hóa đi đúng hướng và bền vững. Đây là quan điểm được khẳng định rõ trong Hiến pháp và thực tiễn chính trị Việt Nam. Sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố bảo đảm tính định hướng, thống nhất trong thực hiện dân chủ. Lợi ích của Đảng thống nhất với lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Hồ Chí Minh nhấn mạnh:“Đảng ta không phải là tổ chức làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(15). Vậy nên, để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng “phải có đường lối cách mạng đúng, có đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo đúng. Đường lối ấy chỉ có thể là đường lối của chủ nghĩa Mác - Lênin được vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của dân tộc”(16).

Cán bộ, đảng viên nêu gương thực hành dân chủ. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nêu gương là nguyên tắc cốt lõi. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(17). Trong thực hành dân chủ, nêu gương là cách thể hiện sinh động và hiệu quả nhất tinh thần dân chủ của lãnh đạo, không chỉ nói mà phải làm và làm trước.

Người lãnh đạo nêu gương còn thể hiện ở lối sống giản dị, ứng xử công bằng, minh bạch, không đặc quyền đặc lợi, tạo niềm tin với nhân dân và cổ vũ nhân dân thực hành dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng của phong cách lãnh đạo gần dân, vì dân, luôn lắng nghe và thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng, phải nêu gương cho quần chúng noi theo. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, người lãnh đạo cần mở rộng dân chủ, khuyến khích cán bộ, đảng viên và nhân dân mạnh dạn phát biểu ý kiến, từ đó phát huy sức mạnh tập thể và trí tuệ của quần chúng trong công cuộc xây dựng đất nước.

- Phê phán, đấu tranh với hành vi vi phạm dân chủTrong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân chủ không chỉ là mục tiêu mà còn là phương thức phát triển xã hội. Người đặc biệt nhấn mạnh đến việc phê phán, đấu tranh với các hành vi vi phạm dân chủ, như: lợi dụng chức quyền, quan liêu, áp đặt… Những hành vi đó đi ngược lại bản chất cách mạng và làm suy yếu niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước: “pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”(18).

2.2. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong thời kỳ đổi mới

Thứ nhất, nhận thức về chủ thể nhân dân - “Dân là chủ”, “dân làm chủ” ngày càng đầy đủ

Nhận thức về chủ thể nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh với hai luận điểm cốt lõi “dân là chủ” và “dân làm chủ” ngày càng sâu sắc, khẳng định vai trò trung tâm, quyết định của nhân dân trong mọi hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đảng ta luôn xác định, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân nhân và tiếp tục khẳng định quan điểm của Hồ Chí Minh: “chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng”(19).

Vị trí trung tâm, vai trò chủ thể của nhân dân được Đảng khẳng định: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(20). Việc vận dụng tư tưởng lấy dân làm gốc được thể hiện qua các chủ trương tăng cường dân chủ cơ sở, hoàn thiện thể chế pháp luật để nhân dân thực sự được tham gia giám sát và thụ hưởng thành quả phát triển.

Thứ hai, nhận thức về vị trí của dân chủ trong hệ mục tiêu CNXH ngày càng đầy đủ, toàn diện

Thuật ngữ “dân chủ XHCN” xuất hiện lần đầu trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986). Đại hội mở đầu công cuộc đổi mới đất nước. Đại hội VI xác định: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”(21). Từ đây, quan niệm về dân chủ đã gắn liền với tư tưởng “dân là chủ”, “dân làm chủ”, xây dựng nền dân chủ XHCN gắn liền với xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Lý luận về xây dựng dân chủ XHCN đã không ngừng được hoàn thiện, gắn với tổ chức, hiện thực hóa các quan điểm nêu trên.

Tại Đại hội IX của Đảng năm 2001, tổng kết 15 năm đổi mới, Đảng đã đưa “dân chủ” vào hệ mục tiêu của cách mạng nước ta: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội X của Đảng (năm 2006) tiếp tục có những phát triển mới trong nhận thức về dân chủ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân”(22).

Đại hội XI của Đảng (năm 2011), trong Cương lĩnh bổ sung và phát triển, Đảng ta đã đưa cụm từ dân chủ lên trước cụm từ công bằng, văn minh trong hệ mục tiêu và cũng là đặc trưng bản chất bao trùm của xã hội XHCN với mục tiêu xây dựng đất nước: “Dân giàu, nước mạnhdân chủ, công bằng, văn minh”(23). Luận điểm này thể hiện điểm mới trong nhận thức của Đảng về mục tiêu dân chủ, đó là: (1) Đảng ngày càng chú trọng vị trí của dân chủ trong hệ mục tiêu đổi mới đất nước. Theo đó, dân chủ trở thành bản chất của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước; (2) Dân chủ là tiền đề, điều kiện để thực hiện công bằng, văn minh. Để hướng tới một xã hội công bằng, văn minh, trước hết phải bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; có dân chủ mới có công bằng, văn minh.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam gần 40 năm đổi mới và hơn nửa thế kỷ làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy, dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết thành công mọi vấn đề; dân chủ là của quý… Thực hành dân chủ tạo tiền đề, điều kiện để tiến tới một xã hội công bằng, văn minh.

Thứ ba, nhận thức về vai trò của dân chủ có bước tiến quan trọng

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh…”, phản ánh sự kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH, về vai trò của dân chủ trong xây dựng CNXH. Đây là kết quả bước tiến cả về lý luận và thực tiễn. Dân chủ không chỉ được hiểu là một hình thức chính trị mà đã trở thành nội dung cốt lõi và là động lực phát triển trong quá trình xây dựng CNXH.

Đảng không chỉ khẳng định dân chủ là bản chất của chế độ mà còn đặt dân chủ ở vị trí trung tâm để phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Tại Đại hội XI (năm 2011), Đảng ta đã có bước tiến lớn trong nhận thức về vai trò của dân chủ khi khẳng định: “Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”(24) và nhấn mạnh việc hiện thực hóa quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân.

Đến Đại hội XII (năm 2016), phát huy dân chủ XHCN được Đảng khẳng định là một trong những thành tố hợp thành chủ đề Đại hội và cũng là thành tố trong tiêu đề của Báo cáo chính trị(25).

Thứ tư, nhận thức về vị trí của dân chủ ở cơ sở trong xây dựng CNXH

Nhận thức về vị trí của dân chủ ở cơ sở trong xây dựng CNXH ngày càng được khẳng định rõ ràng, sâu sắc và toàn diện, phản ánh những bước tiến quan trọng cả về lý luận và thực tiễn của Đảng. Dân chủ ở cơ sở là nền tảng của dân chủ XHCN. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân chủ phải bắt đầu từ cơ sở, từ đời sống hằng ngày của người dân; dân chủ ở cơ sở chính là hình thức trực tiếp, gần gũi và hiệu quả nhất để nhân dân thực hiện quyền làm chủ. Khi quyền lực nhà nước được nhân dân giám sát từ cơ sở, đó là biểu hiện sống động của dân chủ XHCN.

Hiện nay, dân chủ ở cơ sở đã trở thành nội dung chính trị - pháp lý quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước. Tư duy mới được thể hiện rõ ràng trong các văn kiện đại hội của Đảng. Đại hội XI đã nhấn mạnh yêu cầu “bảo đảm dân chủ ở cơ sở đi vào thực chất”. Đại hội XII tiếp tục mở rộng phạm vi và cơ chế thực hiện dân chủ ở cơ sở, coi đó là điều kiện để “tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân”. Đại hội XIII yêu cầu thực hiện nghiêm túc dân chủ ở cơ sở; phát huy vai trò trung tâm, chủ thể của nhân dân trong phát triển đất nước. Đảng đã xác định dân chủ ở cơ sở không chỉ là phương tiện mà còn là động lực của tiến trình xây dựng CNXH.

Trong tăng cường sự đồng thuận xã hội, dân chủ ở cơ sở trở thành trụ cột bảo vệ Đảng. Đảng đã nhận thức rõ rằng, nơi nào dân chủ ở cơ sở thực chất, nơi đó niềm tin của dân vào Đảng được củng cố. Dân chủ cơ sở vì thế không còn là một nhiệm vụ chính trị mà là công cụ bảo vệ Đảng và chế độ từ gốc.

Thứ năm, bước tiến trong dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội với phương thức, biện pháp phù hợp 

(1) Đổi mới toàn diện gắn với dân chủ hóa các lĩnh vực đời sống xã hội. Trong lĩnh vực chính trị, hệ thống chính trị với cơ chế tổ chức, hoạt động “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, đoàn thể tập hợp lực lượng” được đổi mới theo hướng dân chủ hóa. Trong lĩnh vực kinh tế, đã xác lập và từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, thừa nhận, tôn trọng sự tồn tại của các thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu, nhiều hình thức phân phối; mở rộng và phát huy được sự tham gia của nhân dân; giải quyết tương đối hài hòa các quan hệ lợi ích giữa các giai tầng, thành phần xã hội, thành phần kinh tế… Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, người dân được tự do tiếp cận thông tin, tự do sáng tạo, tự do ngôn luận. Tinh thần cởi mở, dân chủ, tranh luận, thảo luận trong đời sống văn hóa, xã hội tăng lên. Người dân là chủ thể cũng như đối tượng thụ hưởng các giá trị văn hóa, xã hội.

(2) Thực hiện dân chủ gắn với kỷ cương, pháp luật. Hiện thực hóa giá trị dân chủ đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và bảo đảm gắn với kỷ luật, kỷ cương. Trong các văn kiện của Đảng thời kỳ đổi mới luôn nhấn mạnh dân chủ phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Đây là cơ sở, tiền đề quan trong để giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ cương, pháp luật.

Nhà nước đã thể chế hóa quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong thực tiễn. Hiến pháp đã hiến định quyền làm chủ của nhân dân và khẳng định nhân dân là chủ thể trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bên cạnh những thành quả to lớn đã đạt được trong thực hiện dân chủ và xây dựng nền dân chủ XHCN thì việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này vẫn còn một số hạn chế sau:

(1) Mối quan hệ và vị trí, vai trò của dân chủ với các thành tố khác (dân giàu, nước mạnh, công bằng, văn minh) trong hệ mục tiêu của CNXH Việt Nam chưa được luận giải rõ. Mặc dù Đảng đã xác định rõ mục tiêu CNXH là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, song thiếu một hệ thống lý luận chặt chẽ và đầy đủ để lý giải mối quan hệ hữu cơ giữa các thành tố, đặc biệt là vai trò mang tính nền tảng - xuyên suốt - hỗ trợ lẫn nhau giữa dân chủ và các thành tố còn lại.

(2) Quyền dân chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một số lĩnh vực còn bị vi phạm; việc thực hành dân chủ vẫn còn mang tính hình thức; vẫn có tình trạng lợi dụng dân chủ để gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội. Nhiều chủ trương đúng nhưng chưa được thể chế hóa kịp thời nên vai trò của nhân dân chưa được bảo đảm… Những vấn đề trong thực tiễn liên quan đến lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội chưa được giải quyết, hoặc giải quyết chậm gây bức xúc cho nhân dân và thiệt hại cho Nhà nước, ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

(3) Cách thức, biện pháp xây dựng nền dân chủ XHCN chưa toàn diện và sâu sắc, thực tiễn triển khai còn phân mảnh, thiếu đồng bộ. Trong triển khai chính sách, đôi khi sự gắn kết giữa dân chủ với cải cách kinh tế, công bằng xã hội hay phát triển văn hoá thiếu chặt chẽ. Ví dụ, các chính sách hỗ trợ vùng sâu, vùng xa nhiều khi vẫn theo hình thức “trợ cấp” thay vì để người dân tham gia, bàn bạc và quyết định cách làm phù hợp với thực tiễn.

(4) Nhận thức về vai trò của dân chủ và xây dựng nền dân chủ XHCN trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, người dân còn hạn chế. Dân chủ đôi khi được hiểu đơn giản là “được nói”, “được góp ý” mà không gắn với trách nhiệm, năng lực công dân hay phát triển toàn diện con người. Ví dụ, nhiều cuộc đối thoại, tiếp xúc cử tri hay lấy ý kiến của nhân dân còn hình thức, khiến dân chủ trở thành công cụ hành chính thay vì động lực thực sự cho sự phát triển cộng đồng.

2.3. Một số yêu cầu đặt ra trong vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng nền dân chủ XHCN 

Thứ nhất, nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng nền dân chủ XHCN phải khách quan, toàn diện; phù hợp với bối cảnh thực tiễn đất nước và xu thế vận động khách quan của thời đại. Bởi lẽ, dân chủ, quyền làm chủ trong xã hội luôn dựa trên những cơ sở thực tiễn, nhất là cơ sở kinh tế. C.Mác chỉ rõ: “Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định”(26).

Thứ hai, phải trung thành và sáng tạo trong nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, xây dựng nền dân chủ XHCN trên tinh thần hiểu đúng và kiên định giá trị cốt lõi, xuyên suốt, bền vững. Đồng thời tiếp tục nghiên cứu bối cảnh mới và nhu cầu thực tiễn đặt ra để bổ sung, phát triển. Cần tiếp tục nghiên cứu để cụ thể hóa và hiện thực hóa đầy đủ nội dung “dân là chủ” và “dân làm chủ”; tiếp tục nghiên cứu để đẩy mạnh các hoạt động, kết hợp và phát huy hiệu quả các hình thức dân chủ để lắng nghe, phát huy tiếng nói của trực tiếp nhân dân, hoặc thông qua Mặt trận Tổ quốc. Tiếp tục nghiên cứu, cụ thể hóa mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ thành cơ chế mang tính pháp lý, công khai, minh bạch; vấn đề kiểm soát quyền lực thông qua phát huy vai trò tham gia của nhân dân để bảo đảm dân chủ; hoàn thiện hệ thống pháp luật, đủ sức răn đe, cảnh báo để cán bộ không dám, không thể, không muốn, không cần tham nhũng...

Quán triệt yêu cầu này là điều kiện tiên quyết để các chủ thể, lực lượng trong quá trình nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ luôn có một điểm tựa vững chắc, có định hướng mục tiêu rõ ràng, không bị chệch hướng, sai lầm. Đồng thời, khắc phục được hạn chế trong quá trình nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thứ ba, phải hoàn thiện cơ chế, thể chế và bảo đảm những điều kiện cần thiết để nhân dân thực sự làm chủ; đẩy mạnh đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá việc xây dựng nền dân chủ XHCN thời kỳ mới.

Bảo đảm nhân dân làm chủ là mục tiêu cao nhất trong thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Cùng với việc hoàn thiện cơ chế, thể chế và bảo đảm những điều kiện cơ bản để nâng cao năng lực làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, cần phải đẩy mạnh đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận dân chủ XHCN, phủ nhận thành tựu xây dựng nền dân chủ XHCN và chống phá quá trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN Việt Nam. Chú trọng phát hiện, nhận diện những tư tưởng quan điểm, hành vi lệch lạc, sai trái trong nội bộ, những âm mưu, thủ đoạn, luận điệu mới của các thế lực cơ hội, thù địch để từ đó chủ động phê phán, đấu tranh, ngăn chặn, bác bỏ.

Tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh và đấu tranh lý luận về dân chủ, nhân quyền một cách công khai, rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Thứ tư, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và phát huy sức mạnh tổng hợp của các chủ thể xây dựng nền dân chủ XHCN. Nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước hiện nay là một vấn đề rộng lớn, bao quát và liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều chủ thể, lực lượng. Do đó, để đạt được hiệu quả, yêu cầu đặt ra là phải xác định rõ vai trò, trách nhiệm của từng chủ thể, lực lượng trong mỗi nhiệm vụ, chỉ rõ chủ thể, lực lượng chủ yếu, lực lượng hỗ trợ; đồng thời xác định được cơ chế, phương thức gắn kết giữa các chủ thể, lực lượng với nhau trong quá trình thực hiện.

3. Kết luận

Việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền dân chủ XHCN là nhiệm vụ cấp thiết và có ý nghĩa chiến lược. Trong tư tưởng của Người, dân chủ là mục tiêu và là động lực của cách mạng, là quyền làm chủ thực sự của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong bối cảnh mới, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, đồng thời bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân thông qua các cơ chế tham gia, giám sát và phản biện xã hội.

Việc mở rộng dân chủ phải gắn liền với giữ vững kỷ cương, pháp luật. Đồng thời, chú trọng đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng khoa học, dân chủ, gần dân, sát thực tiễn. Tư tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng sáng tạo, góp phần xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vì hạnh phúc của nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước.

_________________

Ngày nhận bài: 22-4-2025; Ngày bình duyệt: 24-4-2025; Ngày duyệt đăng: 20-5-2025.

Email tác giả: hanguyeng@gmail.com 

(1), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.434, 269.

(2), (7), (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.13, Sđd, tr.83, 66, 216.

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Sđd, tr.378.

(4), (5), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Sđd, tr.293, 295, 682.

(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Sđd, tr.610.

(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, Sđd, tr.292.

(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, Sđd, tr.470.

(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Sđd, tr. 333, 289.

(13), (14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, Sđd, tr.264, 263.

(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.14, Sđd, tr.608.

(17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, Sđd, tr.284

(18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.127.

(19) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.73.

(20) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.173.

(21) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.47, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.710.

(22) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.125.

(23), (24) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.70, 70.

(25) Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. https://tcnn.vn, ngày 13-01-2018.

 

(26) C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, t.19, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.36.

TS NGUYỄN THỊ HÀ
Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

 

Nông dân xã Ái Quốc, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương báo cáo kết quả sản xuất với Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngày 31-5-1957)_Nguồn: hochiminh.vn 1. Mở đầu Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng, soi đường cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một trong những nội dung cốt lõi và xuyên suốt trong hệ thống tư tưởng của Người đó là quan điểm về nền dân chủ mới - dân chủ XHCN - nền dân chủ do nhân dân làm chủ, vì lợi ích của nhân dân và do nhân dân quyết định. Tư tưởng này thể tính nhân văn sâu sắc và chỉ dẫn thực tiễn trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. 2. Nội dung 2.1. Nội dung cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội

Tin khác cùng chủ đề

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tận tụy, liêm, chính theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Xây dựng xã hội học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Quét sạch chủ nghĩa cá nhân để phòng, chống suy thoái
Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về chống “giặc nội xâm” đến cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong thời kỳ đổi mới
Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về làm gương, nêu gương và noi gương của cán bộ, đảng viên và giải pháp thực hiện
Nội dung xây dựng Đảng về đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng

Gửi bình luận của bạn