Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc phòng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay là nội dung, biện pháp quan trọng để phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ về phát triển kinh tế, tăng cường tiềm lực quốc phòng của đất nước trên trường quốc tế. Bài viết làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc phòng; kết quả đạt được và một số hạn chế của sự kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng; trên cơ sở đó, đề xuất một số nội dung, biện pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay

1. Đặt vấn đề

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc phòng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của dân tộc; đó là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo hành động thực tiễn, kinh tế gắn chặt với quốc phòng, phục vụ hữu ích cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc. Kế thừa quan điểm “Thực túc – Binh cường” của ông cha trong lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát, nâng lên thành hệ thống quan điểm, tư tưởng sâu sắc, toàn diện, phản ánh những vấn đề cơ bản của sự kết hợp giữa tế với quốc phòng, bảo đảm cho đất nước ta đánh thắng kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc giang sơn, bờ cõi. Tư tưởng của Người về sự kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng được Đảng ta kế thừa, vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc phòng

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “thực hành sản xuất và tiết kiệm là bồi dưỡng và tích trữ lực lượng dồi dào để kháng chiến lâu dài, để chuyển sang tổng phản công, đưa kháng chiến đến thắng lợi”1. Kinh tế và quốc phòng là lĩnh vực hoạt động khác nhau, có mối quan hệ thống nhất biện chứng tác động qua lại, tạo cơ sở, tiền đề để cùng phát triển. Kinh tế phát triển, việc đầu tư cho quốc phòng được nâng lên và ngược lại, quốc phòng muốn vững mạnh dựa trên sự phát triển của kinh tế. Vì vậy, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Người đã chủ trương thực hành chương trình “chống giặc đói”, thực hành tiết kiệm, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, trước mắt là cứu đói, lâu dài, xây dựng nền kinh tế đủ mạnh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc. Để đẩy mạnh phát triển kinh tế, tạo ra của cải vật chất phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến lâu dài của dân tộc, Người đã đề ra hệ thống cách thức, biện pháp kết hợp kinh tế với quốc phòng.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp kinh tế với quốc phòng chưa được Người đề cập trong một tác phẩm riêng biệt, nằm rải rác trong các bài nói chuyện, bài viết, thư gửi các địa phương. Có thể khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp kinh tế với quốc phòng ở một số khía cạnh chủ yếu sau:

Một là, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định vị trí, vai trò của sự kết hợp giữa kinh tế và quốc phòng. Mục đích của sự kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng nhằm nâng cao sức mạnh của đất nước, đưa sự nghiệp kháng chiến kiến quốc của Nhân dân ta đến thắng lợi cuối cùng. Tự mình phải chủ động trong tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế, có như vậy, mới bảo đảm cho việc cung ứng kịp thời, hiệu quả cho nhân dân, cho bộ đội. Người chỉ rõ: “Đồng bào và cán bộ ta phải thi đua với bộ đội, phải ra sức thực hiện kế hoạch sản xuất và tiết kiệm để bồi dưỡng và tích trữ lực lượng cho quân và dân ta đánh thắng hơn nữa, đánh thắng hơn mãi, cho đến ngày kháng chiến thắng lợi hoàn toàn”2.

Trong chiến đấu, bộ đội phải ăn no mới đánh thắng được quân xâm lược, việc tập trung phát triển kinh tế ở các chiến trường, các mặt trận, các vùng tự do và kể cả vùng địch chiếm đóng cần phải được duy trì thường xuyên. Người yêu cầu: “ở vùng tự do thực hiện kế hoạch sản xuất và tiết kiệm là công tác trung tâm của nhân dân, của Chính phủ và của Đoàn thể. Ở vùng du kích và căn cứ du kích, đó là một công việc rất quan trọng”3. Cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc kết hợp kinh tế với quốc phòng nhằm hướng đến thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Người nhấn mạnh: “Vì cứu quốc, các chiến sĩ đấu tranh ở ngoài mặt trận, vì kiến quốc nhà nông phấn đấu ngoài đồng ruộng. Chiến sĩ ra sức giữ gìn nước non. Nhà nông ra sức giúp đỡ chiến sĩ. Hai bên công việc khác nhau, nhưng thật ra là hợp tác. Cho nên, hai bên đều có công với dân tộc, đều là anh hùng”4.

Hai là, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra những cách thức, biện pháp của sự kết hợp giữa kinh tế và quốc phòng.  

Để bảo đảm cho sự kết hợp giữa kinh tế và quốc phòng hiệu quả, đạt được mục đích, yêu cầu đề ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh đến việc đẩy mạnh thực hiện khẩu hiệu tăng gia sản xuất “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập”5. Như vậy, tăng gia sản xuất chính là cách thức, biện pháp tốt nhất để phát triển kinh tế, ngành nào, lĩnh vực nào cũng quán triệt và thấm nhuần khẩu hiệu tăng gia sản xuất thì chắc chắc kinh tế có bước phát triển mới, sản xuất lương thực, thực phẩm sẽ đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đời sống của Nhân dân và cung cấp, bổ sung cho hoạt động quốc phòng.

Để tập trung phát triển kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương phát động phong trào thi đua ái quốc rộng rãi trong quần chúng nhân dân, ở các địa phương. Người chỉ rõ: “phải đặt phong trào sản xuất và tiết kiệm làm trung tâm của phong trào thi đua ái quốc. Mỗi địa phương, mỗi đơn vị, mỗi gia đình đều nên ký giao kèo thi đua thực hiện kế hoạch sản xuất và tiết kiệm riêng của mình để hoàn thành kế hoạch chung của chính phủ”6. Với tư tưởng nhân văn tiến bộ, vì lợi ích của dân tộc, của Nhân dân, phong trào thi đua ái quốc do Người phát động đã lôi cuốn được đông đảo các tầng lớp tham gia, không phân biệt vùng, miền, giàu, nghèo, ai có lòng yêu nước đều phải hưởng ứng, thể hiện rõ tinh thần, trách nhiệm của con lạc, cháu hồng, đưa sự nghiệp kháng chiến kiến quốc của dân tộc đến thắng lợi cuối cùng. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, mặc dù chịu ảnh hưởng của chiến tranh những các cơ sở sản xuất công nghiệp vẫn hoạt động, phong trào tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí diễn ra thường xuyên, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Đời sống của nhân dân ngày càng được nâng lên, việc chi viện lương thực, thực phẩm cho các chiến trường được bảo đảm đầy đủ, kịp thời “thóc không thiếu một cân”, “quân không thiếu một người”.

Để phát triển kinh tế kết hợp với quốc phòng hiệu quả, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến việc các cơ quan, đơn vị, địa phương cần phải có kế hoạch sản xuất và tiết kiệm, chống nạn tham ô, lãng phí, phải sử dụng tiền của, sức lực và thời giờ của nhân dân cho hợp lý. Có như vậy, việc phát triển kinh tế mới đạt được mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ đề ra, góp phần củng cố quốc phòng, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, tạo thành sức mạnh vật chất, tinh thần to lớn trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc.

Trong sự kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là sự huy động tham gia của Nhân dân đối với các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau của đời sống xã hội, tạo sự liên kết, bền chặt giữa Nhà nước và Nhân dân trong một chu trình sản xuất. Người chỉ rõ: “chúng ta phải ra sức hướng dẫn và giúp đỡ nhân dân hơn nữa trong việc sản xuất và tiết kiệm, để cải thiện đời sống của bộ đội và nhân dân, để làm cho dân giàu, nước mạnh… Khẩu hiệu chung của chúng ta là: Bộ đội thi đua giết giặc lập công. Nhân dân thi đua sản xuất, giết giặc”7.

Những cách thức, biện pháp phát triển kinh tế kết hợp với quốc phòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là những yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng tiềm lực kinh tế với quốc phòng để tạo sức răn đe với bên ngoài, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội. Kinh tế và quốc phòng mạnh nâng cao khả năng bảo vệ Tổ quốc “từ sớm”, “từ xa”, “bảo vệ đất nước” từ khi nước chưa ngụy. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc phòng chứa đựng giá trị nhân văn sâu sắc, coi trọng con người, đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, phát triển kinh tế kết hợp với quốc phòng không vì mục đích chiến tranh mà nhằm mục địch phòng là chính.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế và quốc phòng có giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc. Về phương diện lý luận, cung cấp những luận cứ khoa học, định hướng, chỉ dẫn thực tiễn phát triển kinh tế và quốc phòng trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của dân tộc; xây dựng niềm tin, ý chí, quyết chiến, quyết thắng với quân thù xâm lược của quân và dân ta, không sợ khó khăn, gian khổ, hy sinh, nêu cao tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường dân tộc trong phát triển kinh tế và quốc phòng; vạch ra những cách thức, biện pháp để các cấp, các ngành, địa phương quan tâm, chú trọng đến phát triển kinh tế và quốc phòng.

Về phương diện thực tiễn, tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc phòng là kết quả sự vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin về kinh tế với quốc phòng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; truyền thống kết hợp kinh tế với quốc phòng của ông cha trong lịch sử; là cơ sở để Đảng, Nhà nước đề ra quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật kết hợp kinh tế với quốc phòng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.

3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc phòng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Trong suốt chiều dài lịch sử lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, ông cha ta rất quan tâm, chú trọng đến việc kết hợp kinh tế với củng cố quốc phòng để tăng cường khả năng phòng vệ của đất nước; đặc biệt, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối cách mạng đúng đắn đã khái quát việc kết hợp kinh tế với quốc phòng thành hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc phản ánh đặc điểm, tính chất, yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình đất nước ở mỗi giai đoạn, thời điểm cách mạng khác nhau. Nhận thức, tư duy lý luận của Đảng về kết hợp kinh tế với quốc phòng được bổ sung, phát triển. Đại hội lần thứ X của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục phát triển phát triển các khu kinh tế – quốc phòng, xây dựng các khu quốc phòng – kinh tế với mục tiêu tăng cường quốc phòng, an ninh là chủ yếu, tập trung vào các địa bàn trọng điểm chiến lược và những khu vực nhạy cảm trên biên giới đất liền, biển đảo”8.

Đại hội lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hoá – xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá – xã hội trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo”9.

Đại hội lần thứ XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh quan điểm, tư tưởng kết hợp kinh tế với quốc phòng và quốc phòng với kinh tế trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bổ sung việc “khắc phục triệt để những sơ hở, thiếu sót trong việc kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh tại các địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược”10.

Đại hội lần thứ XIII của Đảng một lần nữa khẳng định: “điều chỉnh, bổ sung và nâng cao hiệu quả các khu kinh tế và quốc phòng ở các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo. Thực hiện chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế biến và vùng ven biển với bảo vệ quốc phòng, an ninh”11.

Chính vì vậy, thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát triển kinh tế với quốc phòng đạt được nhiều kết quả quan trọng: tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì ổn định, thị trường xuất, nhập khẩu mở rộng, đời sống của Nhân dân được nâng cao; các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp mũi nhọn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhà nước; sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát huy vai trò là trụ đỡ bền vững của đất nước… Các thành phần kinh tế hoạt động theo đúng khuân khổ của Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đánh giá: “Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng kinh tế cao hơn mục tiêu đề ra, các cân đối lớn được bảo đảm, tăng trưởng GDP 9 tháng đạt 6,82%, ước cả năm đạt 6,8-7%”12. Quốc phòng được củng cố, tăng cường, giữ vững ở phương diện trong nước và quốc tế, “tiềm lực quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường trên nhiều phương diện, nhất là xây dựng khu vực phòng thủ chiến lược, lâu dài. Xử lý linh hoạt, hiệu quả, khôn khéo các tình huống, bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, quản lý chặt chẽ biên giới”13.

Hiện nay, trước tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn; mâu thuẫn, tranh chấp, chủ quyền, biển, đảo, biên giới, lãnh thổ, chiến tranh sử dụng công nghệ cao ngày càng quyết liệt, có mặt rất căng thẳng, những thách thức an ninh phi truyền thống đặt ra cho mỗi quốc gia, dân tộc nhiều khó khăn mới trong giải quyết các tình huống, sự việc phát sinh; các thế lực thù địch, phản động ra sức chống phá cách mạng Việt Nam đã đặt ra cho việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc phòng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, thịnh vượng, sánh vai cường quốc năm châu thế giới, cụ thể:

Một là, quán triệt và nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của việc kết hợp kinh tế với quốc phòng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng, là quy luật của lịch sử dựng nước và giữ nước. Do vậy, cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương và Nhân dân quán triệt và nhận thức sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kết hợp kinh tế với quốc phòng; quốc phòng với kinh tế. Làm tốt công tác tuyên truyền, vận động để cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và Nhân dân đồng tình, ủng hộ quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước về sự kết hợp kinh tế với quốc phòng nhằm xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, ý thức bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Các vua Hùng đã có công dựng nước Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”14.

Việc phát triển kinh tế gắn với quốc phòng và quốc phòng với kinh tế nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Do đó, cần thống nhất nhận thức, hành động cách mạng ở các cấp, các ngành, địa phương, mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và Nhân dân đồng tình, ủng hộ; tích cực, chủ động tham gia phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng, xây dựng các chương trình, kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng, tăng cường các điều kiện tự nhiên, xã hội bảo đảm cho sự gắn kết chặt chẽ trong từng khâu, từng bước của hoạt động kinh tế, quốc phòng.

Trên cơ sở quan điểm, đường lối của Đảng về sự kết hợp giữa kinh tế và quốc phòng, các cơ quan, đơn vị, địa phương cần cụ thể hoá, tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế gắn với chăm lo củng cố quốc phòng linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả; bảo đảm các điều kiện, cơ sở vật chất kỹ thuật đồng bộ, hiện đại cho phát triển kinh tế, bảo vệ Tổ quốc từ khi nước chưa nguy. Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là người đứng đầu đề cao tinh thần, trách nhiệm của mình, hành động mạnh mẽ, quyết liệt; tập trung vào những lĩnh vực còn yếu, đang là điểm nghẽn; từ đó, phối kết hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang địa phương bảo vệ vững chắc các mục tiêu trọng điểm, trọng yếu, xây dựng ý chí, niềm tin, bản lĩnh vững vàng cho các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam, vào mối quan hệ giữa con người và vũ khí trang bị kỹ thuật, trong đó yếu tố con người là quyết định.

Hai là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, thường xuyên trực tiếp là cấp uỷ chính quyền địa phương, chỉ huy các cấp trong quân đội.

Cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu chính quyền địa phương, chỉ huy các cấp trong quân đội quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 8 (khoá XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; Nghị quyết số 520-NQ/QUTW ngày 25/9/2012 của Quân ủy Trung ương về “Lãnh đạo nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp quốc phòng của quân đội”. Cụ thể hóa quan điểm của Đảng, Quân uỷ Trung ương thành chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo sát hợp, đúng, trúng với đặc điểm tình hình, yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới; cơ quan quân sự địa phương các cấp làm tốt công tác tham mưu, đề xuất với cấp ủy, chính quyền địa phương về việc phát triển kinh tế kết hợp với quốc phòng; xây dựng các khu kinh tế, phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn phục vụ cho nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống, không để bị động, bất ngờ.

Các hoạt động của cán bộ, chiến sĩ quân đội đứng chân ở địa bàn đóng quân hướng vào thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, đem lại cuộc sống bình yên cho Nhân dân. Các doang nghiệp quân đội tích cực, chủ động tham gia phát triển kinh tế cùng với cấp uỷ, chính quyền địa phương, sẵn sàng hỗ trợ, giúp đỡ địa phương khi gặp những sự cố thiên tai; đồng thời, thực hiện nghiêm túc các quy định của Đảng, quản lý của Nhà nước, thường xuyên trực tiếp Quân ủy Trung ương.

Việc phát triển kinh tế gắn với quốc phòng giảm bớt gánh nặng chi phí của Đảng, Nhà nước cho hoạt động quốc phòng, tăng lên khả năng tự bảo đảm trang thiết bị kỹ thuật, vũ khí cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở các doanh nghiệp quân đội; các hoạt động của doanh nghiệp quân đội bảo đảm đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, quốc phú, binh cường. Cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu gương mẫu trong lời nói và hành động, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết; xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến thẳng lên hiện đại thật sự là lực lượng chính trị tin cậy, trung thành, công cụ bạo lực sắc bén trong bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Ba là, tiếp tục nâng cao năng lực sản xuất của các doanh nghiệp quân đội ở các địa bàn đứng chân của địa phương.

Với bản chất, truyền thống tốt đẹp đã được xây dựng sau 80 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và phát triển Quân đội nhân dân Việt Nam đã hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó. Chính vì vậy, nâng cao năng lực sản xuất của các doanh nghiệp quân đội ở các địa bàn đứng chân của địa phương là thực hiện chức năng đội quân lao động sản xuất, góp phần vào tự bảo đảm các điều kiện, nhu yếu phẩm cần thiết cho các đơn vị quân đội trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và giải quyết nhu cầu việc làm cho người lao động; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao (kỹ sư cầu đường, công trình xây dựng, lắp ráp, sản xuất các linh kiện; nhà khoa học giỏi về khoa học kỹ thuật quân sự).

Các doanh nghiệp quân đội, như: Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel; Tổng Công ty Tân cảng Sài Gòn; Ngân hàng Cổ phần Quân đội Mbbank; các doanh nghiệp của Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng… cần nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh; đổi mới phương thức lãnh đạo, quản lý nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của thị trường và xuất khẩu ra thế giới; nâng cao năng lực dự báo tình hình của người đứng đầu các doanh nghiệp quân đội trong sản xuất, xây dựng phát triển kinh tế; bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng, cho Nhân dân; các doanh nghiệp quân đội là nguồn lực quan trọng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân trong ứng phó, giải quyết các thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là đối với thiên tai, dịch bệnh…

Quân ủy Trung ương cần có những cơ chế, chính sách đặc thù vừa quản lý tốt các doanh nghiệp quân đội, vừa đánh thức, khơi dậy tiềm năng, thế mạnh của các doanh nghiệp trong từng lĩnh vực, từng hoạt động; giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong các doanh nghiệp quân đội. Gắn chặt nhiệm vụ phát triển kinh tế với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”, thực hiện có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, cuộc vận động Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” với thực hiện Nghị quyết số 847-NQ/QUTW ngày 28/12/2021 của Quân uỷ Trung ương phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong giai đoạn mới.

4. Kết luận

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc phòng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là quan điểm, đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, thể hiện tư duy lý luận ngày càng sâu sắc của sự kết hợp kinh tế với quốc phòng và quốc phòng với kinh tế nhằm tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. Trong quá trình tổ chức thực hiện mỗi cấp, mỗi ngành cần nêu cao tinh thần, trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và Nhân dân, hành động mạnh mẽ, quyết liệt vì sự trường tồn, phát triển thịnh vượng của đất nước để xác định các chủ trương, biện pháp kết hợp kinh tế với quốc phòng phù hợp, hiệu quả. Mỗi bước phát triển của kinh tế sẽ góp phần nâng cao hơn nữa tiềm lực quốc phòng và sự phát triển của quốc phòng được củng cố, giữ vững tạo điều kiện thuận lợi để các hoạt động kinh tế diễn ra. Cần xử lý và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng, giữa quốc phòng và kinh tế để giữ vững môi trường hòa bình, ổn định bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước nói chung và hoạt động kinh tế, quốc phòng nói riêng.

Chú thích:
1, 2, 3, 6, 7. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 349, 350, 349, 349, 350.
4, 5. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.134, 135.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 110.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 149.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.149.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 254.12, 13. Quốc hội (2024). Báo cáo tóm tắt kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2024, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2025 của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội (khoá XV).
14. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 9. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 134.

1. Đặt vấn đề Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc phòng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của dân tộc; đó là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo hành động thực tiễn, kinh tế gắn chặt với quốc phòng, phục vụ hữu ích cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc. Kế thừa quan điểm “Thực túc – Binh cường” của ông cha trong lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát, nâng lên thành hệ thống quan điểm, tư tưởng sâu sắc, toàn diện, phản ánh những vấn đề cơ bản của sự kết hợp giữa tế với quốc phòng, bảo đảm cho đất nước ta đánh thắng kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc giang sơn, bờ cõi. Tư tưởng của Người về sự kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng được Đảng ta kế thừa, vận dụng linh hoạt, sáng tạo v&a

Tin khác cùng chủ đề

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tận tụy, liêm, chính theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Xây dựng xã hội học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Quét sạch chủ nghĩa cá nhân để phòng, chống suy thoái
Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về chống “giặc nội xâm” đến cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong thời kỳ đổi mới
Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về làm gương, nêu gương và noi gương của cán bộ, đảng viên và giải pháp thực hiện
Nội dung xây dựng Đảng về đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng

Gửi bình luận của bạn