Le Paria (Người cùng khổ) là tờ báo cách mạng do Nguyễn Ái Quốc và một số người trong Hội Liên hiệp thuộc địa (L’Union intercoloniale) sáng lập năm 1922, tại Paris (Pháp). Phía trên, ở giữa là tên của tờ báo bằng tiếng Pháp “Le Paria”, phía bên trái là chữ Arập, phía bên phải là chữ Trung Quốc. Dưới tên Le Paria là dòng chữ “Diễn đàn của các dân tộc thuộc địa” (Tribune des populations des colonies). Dòng chữ này nhiều lần thay đổi: Từ số 21 (tháng 12-1923) đến số 35 (tháng 5-1925) là “Diễn đàn của vô sản thuộc địa” (Tribune du Prolétariat colonial); Số 36-37 (tháng 9 và tháng 10-1925) là “Cơ quan của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa” (Organe des peuples opprimés des colonies); Số 38 (tháng 4-1926) đổi thành “Cơ quan của Hội Liên hiệp thuộc địa” (Organe de l’Union intercoloniale).

Báo Le Paria - diễn đàn đấu tranh của các dân tộc thuộc địa
Báo Le Paria - diễn đàn đấu tranh của các dân tộc thuộc địa

1.  Tôn chỉ mục đích của tờ báo Le Paria

Trong 4 năm tồn tại (4-1922 - 4-1926), Le Paria ra mắt bạn đọc được 38 số1. Số đầu tiên xuất bản ngày 1-4-1922 và số cuối xuất bản tháng 4-1926.

Trong số đầu tiên, Le Paria đăng tải bài viết nêu rõ sự ra đời của báo là nhờ “sự đồng cảm sâu sắc của các đồng chí ở Bắc Phi, Tây Phi thuộc Pháp và châu Phi xích đạo thuộc Pháp, Madagascar, Đông Dương, Antilles và Guyan”2. Tôn chỉ mục đích nêu rõ tờ báo được lập ra để  phản ánh tình cảnh, số phận bi đát của hàng triệu người đang sống dưới ách đô hộ của thực dân, đế quốc “mà không phân biệt quốc gia, nòi giống”3; đồng thời “tố cáo sự lạm quyền về chính trị, sự độc đoán của chính quyền và sự bóc lột về kinh tế mà nạn nhân là người dân tại các lãnh thổ rộng lớn ở hải ngoại”4; “kêu gọi họ tập hợp lại để làm việc vì tiến bộ vật chất và tinh thần, kêu gọi họ tập hợp lại thành một tổ chức nhằm giải phóng những người bị áp bức khỏi các lực lượng thống trị, thực hiện tình yêu thương và lòng bác ái”5. Tất cả để phục vụ mục đích tối thượng là “giải phóng con người”6.

Nội dung của báo Le Paria khá phong phú, đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau trong xã hội thuộc địa những năm đầu thế kỷ XX ở các thuộc địa của Pháp, như: Đông Dương, Bắc Phi, Tây phi thuộc Pháp, các vùng lãnh thổ hải ngoại, như: Guyane, Réunion, châu Đại Dương,...



2. Chuyên mục về Đông Dương

Trên báo Le Paria, tình hình Đông Dương được phản ánh khá đậm nét. Viết bài cho chuyên mục này có nhiều tác giả là người Việt Nam, nước ngoài, tiêu biểu nhất Nguyễn Ái Quốc. Với tư cách là chủ bút của tờ báo, có những số Nguyễn Ái Quốc viết 2-3 bài, như: số 4 (ngày 1-7-1922), có 2 bài với tựa đề “Thù ghét chủng tộc” (La haine des races) và “Những kẻ đi khai hóa” (Les civilisateurs); số 5 (ngày 1-8-1922), có 3 bài với tựa đề “Khai hóa giết người” (Civilisation assasine), “Phụ nữ An nam và sự đô hộ của Pháp” (La femme annamite et la domination française) và “Sở thích đặc biệt” (Goûts spéciaux); số 15 (tháng 6-1923) có 3 bài: “Không phải chuyện đùa” (Sans blague), “Diễn đàn Đông Dương” (Tribune de l’Indochine), “Trò Méclanh” (Merlinerie),...

Những bài viết trên phản ánh về các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội và đời sống của nhân dân Đông Dương, đồng thời làm rõ bản chất và tố cáo tội ác của chính quyền thực dân đối với nhân dân Đông Dương. Trong các bài “Những kẻ đi khai hóa”, “Phụ nữ An nam và sự đô hộ của Pháp”, Nguyễn Ái Quốc phản ánh rõ số phận những người phụ nữ bản xứ ở thuộc địa, họ bị chà đạp về nhân phẩm, đánh đập, cưỡng bức, làm nhục, tra tấn đến chết nhưng những kẻ gây tội ác không bị kết án và trừng phạt. Bài của tác giả Ng. Thuong7 trong “Diễn đàn Đông Dương” (Tribune de l’Indochine), đăng trong số 33, tháng 4-1925, đã tái hiện trận lũ lịch sử năm 1924, khiến 2.000 người chết, thiệt hại kinh tế lên đến 120 triệu franc. Nước lũ khiến Lào bị cô lập trong vòng 2 tháng, 1467 người ở tỉnh Quihon (Campuchia) thiệt mạng. Ở Bắc Kỳ, nông nghiệp bị thiệt hại nghiêm trọng. Mặc dù có nhiều dự án xây dựng và gia cố đê nhưng chính quyền vẫn không thực hiện. Tác giả đặt câu hỏi liệu 20 triệu người Đông Dương phải chờ đợi đến khi nào, ngày mai hay là không bao giờ? Theo tác giả, đây là di sản phá hoại của Toàn quyền Merlin sau khi rời Đông Dương8.

Trong bài “Tổng động viên ở Đông Dương” (La mobilisation en Indochine) đăng trong số 9, ngày 1-12-1922, tác giả J.Paul Monteil cho thấy việc tuyển mộ lính của nhà cầm quyền thực dân được thực hiện dưới hình thức cưỡng ép. Người dân bản xứ không muốn “đánh đổi mạng sống của mình để cứu nền công lý và tự do của nước Mẹ”9, tuy nhiên, chính quyền thực dân đã sử dụng “nhiều biện pháp cưỡng chế hà khắc để tách họ ra khỏi gia đình và đưa họ vào chỗ chết, trong các ngôi mộ tập thể ở Pháp”10, hoặc họ sẽ trở thành “lực lượng gây hằn thù giữa người bản xứ và sau đó Đông Dương sẽ đổ máu bởi những cuộc nổi loạn nghiêm trọng”11.

Trong các bài “Thù ghét chủng tộc”, “Những kẻ đi khai hóa”, đăng trong số 4, ngày 1-7-1922, “Nhân đạo thực dân”(Humanité coloniale), đăng trong số 6-7, ngày 1-9 và 1-10-1922, Nguyễn Ái Quốc đã dẫn dắt người đọc đi đến tận cùng bản chất của cái gọi là “tình yêu thương giữa các chủng tộc ở Đông Dương”. Ở đó, nhưng những người đang tự gán cho mình trọng trách khai hóa văn minh lại chính là những kẻ giết người với “thủ đoạn tàn ác”12. Với chính sách cai trị hà khắc của chính quyền thuộc địa, quyền sống- một trong những quyền cơ bản của người dân bản xứ không được coi trọng. Họ bị xem là công cụ phục vụ cho cuộc chiến mà nhà cầm quyền thực dân thực hiện13.

Nguyễn Thế Truyền cũng có một số bài viết về Đông Dương như: bài “Đông Dương và Thái Bình Dương” (L’Indochine et le Pacifique), đăng trong số 32, tháng 2,3-1925, bài “Người Đông Dương phải tổ chức lại” (Les Indochinois doivent s’organiser), đăng trong số 35, tháng 8-1925. Trong đó, bài “Đông Dương và Thái Bình Dương”, tác giả đã phân tích làm rõ các nước tư bản Anh, Mỹ, Pháp, Nhật đang tác động mạnh mẽ về kinh tế và quân sự đối với các nước khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và mối quan hệ của những nước tư bản này ở khu vực Châu Á- Thái Bình Dương, trong đó “Pháp bắt đầu giơ móng vuốt siết chặt Đông Dương”14. Bài “Người Đông Dương phải tổ chức lại”, tác giả nêu rõ ở Trung Quốc có một đảng chính trị lớn của những người cộng sản được nhân dân ủng hộ. Tác giả đề nghị: “Hãy theo gương Trung Quốc: chúng ta phải tổ chức thành đảng chính trị và thành nghiệp đoàn. Nhất là, hãy hướng tới quần chúng, phải tổ chức quần chúng, vì nếu không có tổ chức, quần chúng sẽ không thể tự vệ, không có quần chúng thì cách mạng không thể thành công”15. 

 

3. Các chuyên mục khác

 

Bên cạnh chuyên mục về Đông Dương, Le Paria còn có các chuyên mục khác như: “Diễn đàn Tây Phi và Châu Phi xích đạo thuộc Pháp” (Tribune de l’ A.O.F et A.E.F), “Diễn đàn Bắc Phi” (Tribune de l’Afrique du Nord), “Diễn đàn Madagascar” (Tribune de Madagascar), “Diễn đàn Châu đại dương” (Tribune de l’Océanie),... Những bài viết đăng tải trên các chuyên mục này cũng tập trung phản ánh về các mặt: kinh tế, đời sống, tôn giáo của người lao động bản xứ, các cuộc đấu tranh của nhân dân thuộc địa phản đối chính sách cai trị hà khắc của nhà cầm quyền.

Trong mục “Diễn đàn Tây Phi và Châu Phi xích đạo thuộc Pháp”, số 4, ngày 1-7-1922, có bài viết “Vấn đề hồi giáo ở Porto-Novo” (Les questions musulmanes à Porto-Novo) của Manuel Sanoussi, phản ánh về nỗi bất bình của người dân đối với việc bầu người đại diện tôn giáo sai nguyên tắc và việc biển thủ tiền xây dựng thánh địa Porto-Novo của quan chức địa phương. Việc làm của chính quyền đã khiến người dân gửi thư lên Thanh tra thuộc địa phản đối, đồng thời lên án sự thờ ơ, vô trách nhiệm của thống đốc Dahomay16.

Bài viết về “Vụ V.V.S” (L’Affaire de la V.V.S) (Vy Vato Sakelyka) của Fernand Gouttenoirs de Tourne đăng trong “Diễn đàn Madagascar”, số 8, tháng 11-1922 lại thể hiện sự tàn bạo của chính quyền mà Tòa đệ nhị Tananarive và quan Toàn quyền Garbi là đại diện. Theo đó, V.V.S là một nhóm nhà trí thức trẻ được thành lập năm 1913 với mục tiêu đem lại giáo dục, việc làm và đòi các quyền rộng rãi, sự tiến bộ cho người bản xứ, đã bị Tòa đệ nhị Tananative quy là hội kín xúi giục người Malgache nổi dậy. Trong vụ này, 34 người bị coi là tiên phong trong giải phóng người Malgache bị kết án khổ sai, 8 án chung thân,... Sau đó, Toàn quyền Garbi lại ra lệnh lưu đày tiếp 173 người bản xứ đến đảo Nosy Lava từ 3-5 năm, trong điều kiện giam cầm rất tồi tệ khiến nhiều người chết17.

Chính sách cai trị hà khắc của chính quyền thực dân còn được phản ánh thông qua việc cướp đất của người dân cấp cho thực dân và phong kiến, khiến nhiều người rơi vào cảnh khốn cùng, bị đẩy đến những khu vực đất đai cằn cỗi, bị bóc lột và rơi vào nạn đói. Tình trạng này được phản ánh trong bài “Nạn cướp bóc ở Maroc và sự ngược đãi ở Algerie” (Brigandages au Maroc, persécutions en Algérie) của Hadji Bicot đăng trên “Diễn đàn Bắc Phi”, số 9, ngày 1-12-1922. Cũng trong số này, mục “Diễn đàn Châu đại dương” có bài “Ở Châu đại dương thuộc Pháp” (En Océanie française) của E.Canal nêu lên sự bất mãn của người dân ở Tahihi trước sự cấu kết của chính quyền và giới thương gia nhằm bóc lột người bản xứ. Việc này thu hút được sự quan tâm của báo chí ở chính quốc. Dịch cúm năm 1918, khiến 20% dân số thiệt mạng, tỷ giá gia tăng từ 5f20 lên 17f50, nhưng chính quyền không có biện pháp phù hợp lại tăng thêm viên chức, tăng lương, cho viên chức được hưởng các kỳ nghỉ xa hoa, lãng phí, khiến ngân sách thâm hụt 1.000.000f, kinh tế rơi vào tình trạng tồi tệ, đời sống của người dân càng thêm khó khăn.

Bài “Một tội ác chống lại Giai cấp vô sản thuộc địa” (Un crime contre le Prolétariat colonia), số 12, ngày 15-2-1923 và bài “Một cuộc đình công ở Bombay” (Une grève à Bombay), số 25, tháng 5-1924, viết về các cuộc đình công của công nhân cắt mía ở Martinique và công nhân dệt ở Bombay phản đối giới chủ, đòi tăng lương, cải thiện điều kiện làm việc. Bài viết cho thấy công nhân phải làm việc trong điều kiện khổ cực nhưng chỉ được nhận mức lương ít ỏi, đặc biệt, “lương của công nhân dệt ở Bombay là bi đát nhất, chỉ với 35 rupee đối với nam, và 17 rupee đối với phụ nữ và trẻ em18.

Một sự kiện nổi bật khác là cuộc khởi nghĩa nông dân được phản ánh trong bài “Vụ án Chauri-Chaura: 172 án tử hình” (L’Affaire de Chauri-Chaura: 172 verdicts de mort) của M.Roy, đăng trong số 12, ngày 15-2-1923. Bài viết đã mô tả cuộc nổi dậy của nông dân tại Chauri-Chaura (Ấn Độ) chống lại thực dân Anh và địa chủ. Hàng nghìn nông dân tấn công vào tài sản của địa chủ, các cửa hiệu bán đồ Anh, tuyên bố nội chiến và tuyên bố ủng hộ sự trị vì của Gandhi... Tuy nhiên, cuộc nổi dậy đã bị chính quyền đàn áp dã man, hàng trăm người bị bắt, 228 người bị kết tội nổi loạn, 172 bản án tử hình19.

Bên cạnh những chuyên mục nêu trên, Le Paria còn đăng tải nhiều bài viết tố cáo tội ác của các nước đế quốc như bài “Động vật học” (Zoologie) của Nguyễn Ái Quốc, đăng trong số 2, ngày 1-5-1922, “Tình trạng nô lệ ở Maroc” (L’esclavage à Maroc) của Rakotavo, đăng trong số 30, tháng 10-1924, “Ở Dahomey “Tội ác vẫn tiếp diễn” (Au Dahomey “Le crime continue”), bài viết không đề tên tác giả, đăng trong số 15, tháng 6-1923),...

Những bài viết về phong trào đấu tranh của người dân ở các thuộc địa, trong đó: Viết về Việt Nam, Nguyễn Thế Truyền có bài “Phan Bội Châu muôn năm” (Vive Phan Boi Chau!), đăng trong số 36-37, tháng 9-10-1925. Bài báo kêu gọi đấu tranh đòi trả tự do cho nhà yêu nước Phan Bội Châu, kèm theo đó là đơn kiến nghị của nhóm “Jeune Annam” ở Hà Nội gửi Hội Liên hiệp thuộc địa yêu cầu Hội Liên hiệp thuộc địa có hành động yêu cầu Chính phủ Pháp và nhà cầm quyền ở Đông Dương trả tự do cho Phan Bội Châu. Viết về Trung Quốc, có bài viết của Victor Shiong “Chủ nghĩa đế quốc quốc tế và khủng bố trắng” (Impérialisme international et terreur blanche), đăng trong số 29, tháng 9-1924. Ngay sau khi Tôn Trung Sơn, lãnh tụ cách mạng tư sản Trung Quốc mất (3-1925), Le Paria đăng bài “Tôn Dật Tiên từ trần” (Sun Yat-Sen est mort) của Nhóm An nam thuộc Hội Liên hiệp thuộc địa và Liên bang châu Á, đăng trong số 32, tháng 2-3-1925 và bài “Di chúc của Tôn Dật Tiên” (Le Testament de Sun Yat-Sen), đăng trong số 35, tháng 8-1925. Viết về Maroc, riêng số 34 (tháng 6-7-1925) có nhiều bài viết phản ánh về phong trào đấu tranh của nhân dân Maroc chống lại thực dân Pháp và thực dân Tây Ban Nha đòi độc lập, như: “Trí thức chống chiến tranh Maroc” (Les intellectuels contre la guerre du Maroc), “Người Riffain đấu tranh giành độc lập” (Les Riffains luttent pour leur indépendance) của El Djazairi, “Người Riffains không đứng một mình!” (Les Riffains ne sont pas seuls!) của Seinghor. Viết về Tunisie, có các bài: “Một cuộc biểu tình của người bản xứ” (Une manifestation indigène), đăng trong số 24, tháng 3-4-1924, “Người bản xứ tổ chức lại và tiến hành đấu tranh giai cấp” (Les indigènes s’organisent et mettent en pratique la lutte de classe), bài báo không ghi tên tác giả, đăng trong số 29, tháng 9-1924.

Ngoài ra, Le Paria còn đăng tải một số bài viết kêu gọi sự đoàn kết của nhân dân thuộc địa chống lại kẻ thù xâm lược, giành độc lập, tự do và quyền sống cho mình, như: “Đảng Cộng sản và vấn đề thuộc địa” (Le Parti communiste et la question coloniale) của Ủy ban nghiên cứu thuộc địa thuộc phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản, đăng trong số 8, tháng 11-1922, “Lời kêu gọi nhân dân các thuộc địa của Hội Liên hiệp thuộc địa” (Appel aux population des coloniaux), đăng trong số 5, ngày 1-8-1922,...

Như vậy, trong 4 năm (1922-1926), với 38 số, Le Paria thực sự là tiếng nói, diễn đàn của các dân tộc thuộc địa. Các bài viết đăng trên Le Paria đã cho người đọc hiểu rõ hơn bản chất của chủ nghĩa thực dân, đồng thời, kêu gọi nhân dân thế giới đoàn kết, ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa, đòi quyền sống, quyền tự do, quyền độc lập của các dân tộc bị áp bức.

 

Bài đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng (in), số 12/2021

1. Hiện nay, Viện Lịch sử Đảng đang lưu trữ, bảo quản 34 số, trong đó có số báo đầu tiên ra ngày 1-4-1922. Đa số báo Le Paria lưu tại Viện Lịch sử Đảng đều được in trên giấy ảnh, khổ 45x60, một số bản được in trên khổ giấy 30x40. Báo được bảo quản trong bìa hồ sơ cứng

2, 3, 4, 5, 6. Le Paria, số 1, ngày 1-4-1922, bản tiếng Pháp, lưu tại Viện Lịch sử Đảng

7. Tác giả không đặt tên bài viết

8, 15. Le Paria, số 35, tháng 8-1925, bản tiếng Pháp, lưu tại Viện Lịch sử Đảng

9, 10, 11. Le Paria, số 9, ngày 1-12-1922, bản tiếng Pháp, lưu tại Viện Lịch sử Đảng

12, 13, 16. Le Paria, số 4, ngày 1-7-1922, bản tiếng Pháp, lưu tại Viện Lịch sử Đảng

14. Le Paria, số 32, tháng 2, 3-1925, bản tiếng Pháp, lưu tại Viện Lịch sử Đảng

17. Le Paria, số 8, tháng 11-1922, bản tiếng Pháp, lưu tại Viện Lịch sử Đảng

18. Le Paria, số 25, tháng 4-1924, bản tiếng Pháp, lưu tại Viện Lịch sử Đảng

19. Le Paria, số 12, ngày 15-2-1923, bản tiếng Pháp, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.

ThS NGUYỄN THỊ HẰNG PHƯƠNG
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1.  Tôn chỉ mục đích của tờ báo Le Paria Trong 4 năm tồn tại (4-1922 - 4-1926), Le Paria ra mắt bạn đọc được 38 số1. Số đầu tiên xuất bản ngày 1-4-1922 và số cuối xuất bản tháng 4-1926. Trong số đầu tiên, Le Paria đăng tải bài viết nêu rõ sự ra đời của báo là nhờ “sự đồng cảm sâu sắc của các đồng chí ở Bắc Phi, Tây Phi thuộc Pháp và châu Phi xích đạo thuộc Pháp, Madagascar, Đông Dương, Antilles và Guyan”2. Tôn chỉ mục đích nêu rõ tờ báo được lập ra để  phản ánh tình cảnh, số phận bi đát của hàng triệu người đang sống dưới ách đô hộ của thực dân, đế quốc “mà không phân biệt quốc gia, nòi giống”3; đồng thời “tố cáo sự lạm quyền về chính trị, sự độc đoán của ch&ia

Tin khác cùng chủ đề

Dấu ấn của những Tổng Bí thư gắn với những thắng lợi tiêu biểu của cách mạng Việt Nam (Kỳ 1)
Tháng 3 ở Ninh Vân!
Phát huy giá trị bộ bản đồ và tư liệu "Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý" trong công tác thông tin, tuyên truyền hiện nay
"Điện Biên Phủ - Trận đánh của thế giới"
KỶ NIỆM 49 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG TỈNH KHÁNH HÒA (2-4-1975 - 2-4-2024): TRANG SỬ HÀO HÙNG VÀ CHÓI LỌI
Nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Gửi bình luận của bạn