Di tích lịch sử – văn hóa là một bộ phận quan trọng của di sản văn hóa. Trong thời kỳ đổi mới Đảng luôn quan tâm công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích lịch sử – văn hóa. Từ sau Đại hội VIII (năm 1996) đến nay, trước yêu cầu bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, nhiều nghị quyết, chương trình, văn kiện quan trọng đã được ban hành nhằm định hướng, thúc đẩy công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử – văn hóa. Bài viết tập trung làm rõ quá trình phát triển tư duy của Đảng về bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích lịch sử – văn hóa (1996 – 2023)

Quá trình phát triển quan điểm của Đảng về bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử – văn hóa (1996 - 2023)
Quá trình phát triển quan điểm của Đảng về bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử – văn hóa (1996 - 2023)

1. Quan điểm của Đảng về bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử – văn hóa (1996 – 2011)

Đại hội lần thứ VIII (1996) của Đảng đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa chiến lược; đặc biệt, đã vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội kéo dài suốt 15 năm. Con đường đi lên CNXH ngày càng được xác định rõ ràng và phù hợp hơn với thực tiễn. Trước những thời cơ và thách thức của giai đoạn phát triển mới, Đảng đã đề ra nhiều chủ trương lớn nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh các chủ trương về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng và an ninh, văn hóa được Đảng xác định là một lĩnh vực trọng yếu và được đặc biệt quan tâm, khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội”[1]; “Bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh của đất nước”[2]. Chủ trương thể hiện sự phát triển tư duy của Đảng. Văn hóa là giá trị đích đến của sự phát triển bền vững, đồng thời là nguồn lực nội sinh quan trọng, tạo nên bản sắc và sức mạnh của quốc gia trong quá trình đổi mới và hội nhập, bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các di tích lịch sử – văn hóa không chỉ góp phần giáo dục lòng yêu nước, bồi đắp bản sắc dân tộc mà còn gắn với phát triển kinh tế – xã hội.

Hội nghị Trung ương 5, khóa VIII đã ban hành Nghị quyết số 03–NQ/TW ngày 16-7-1998 về: “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Nghị quyết HNTƯ 5 khóa VIII đã bổ sung, phát triển và làm sâu sắc hơn kho tàng lý luận văn hóa, đường lối văn hóa của Đảng. Nghị quyết đưa ra quan điểm lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa, về bản sắc, đặc trưng văn hóa, về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc… trong đó quan tâm đến di sản văn hóa, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Nghị quyết nêu rõ: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể”[3]{C}.

Đại hội lần thứ IX (2001) của Đảng xác định xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế  – xã hội, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu tăng đầu tư của Nhà nước và xã hội cho sự nghiệp văn hóa, đặc biệt trong bảo vệ và phát huy giá trị các di tích lịch sử – văn hóa. Đảng chủ trương: “Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc, các giá trị văn học, nghệ thuật, ngôn ngữ, chữ viết và thuần phong mỹ tục của các dân tộc, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh; khai thác các kho tàng văn hóa cổ truyền”[4]. HNTƯ 10 khóa IX, tháng 7-2004, nhấn mạnh: “Trong quá trình mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa, cùng với việc tập trung xây dựng những giá trị mới của văn hóa Việt Nam đương đại, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc và tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, bắt kịp sự phát triển của thời đại”[5]. Theo đó, Đảng đã nhấn mạnh vai trò của việc hoàn thiện cơ chế, chính sách và chế tài phù hợp nhằm thúc đẩy xã hội hóa các hoạt động văn hóa. Đây được xem là giải pháp trọng tâm nhằm huy động hiệu quả nguồn lực từ các tầng lớp nhân dân và các tổ chức kinh tế – xã hội trong công cuộc xây dựng và phát triển văn hóa, trong đó có lĩnh vực bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các di tích lịch sử – văn hóa.

Tiếp đó, Đại hội lần thứ X của Đảng (2006) đã nêu rõ chủ trương về công tác văn hóa: “Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc, các giá trị văn hóa nghệ thuật, ngôn ngữ, thuần phong mỹ tục của cộng đồng các dân tộc. Bảo tồn và phát huy văn hóa, văn nghệ dân gian, kết hợp hài hòa việc bảo vệ, phát huy các di sản văn hóa với các hoạt động phát triển kinh tế, du lịch”{C}[6]. Trong phương hướng và nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2006–2010, bên cạnh các mục tiêu trọng tâm về kinh tế – xã hội, việc phát triển văn hóa nói chung, đặc biệt là trong công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các di tích lịch sử – văn hóa, được đặt ở vị trí quan trọng. Đảng đã xác định mục tiêu xây dựng một nền văn hóa Việt Nam hiện đại, mang đậm bản sắc dân tộc, phù hợp với yêu cầu phát triển con người và xã hội trong bối cảnh đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Đồng thời, chủ trương của Đảng cũng nhấn mạnh việc khuyến khích huy động mọi nguồn lực xã hội và khai thác tối đa khả năng sáng tạo của nhân dân nhằm đầu tư cho các công trình và thiết chế văn hóa, tổ chức các hoạt động mang tính văn hóa; cũng như thúc đẩy sự tham gia tích cực của các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình và đoàn thể vào các hoạt động văn hóa – nghệ thuật, cũng như trong việc quản lý và bảo vệ các di tích và di sản văn hóa. Tiếp đó, Nghị quyết số 31–NQ/TW, ngày 2-2-2009 được thông qua tại HNTƯ 9, khóa X Về một số nhiệm vụ, giải pháp lớn nhằm tiếp tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ của Đảng, đã đề ra nhiệm vụ: “Làm tốt công tác bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá dân tộc{C}[7].

2. Quan điểm của Đảng bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử – văn hóa (2011 – 2023)

Đại hội lần thứ XI (2011) của Đảng chủ trương: “Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, về bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc. Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn hóa, văn nghệ, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa với phát triển du lịch và hoạt động thông tin đối ngoại nhằm truyền bá sâu rộng các giá trị văn hóa trong công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ và người nước ngoài”[8]. Như vậy, đến Đại hội XI chủ trương của Đảng về công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các di tích lịch sử – văn hóa đã có bước phát triển hơn so với Đại hội X, trên cơ sở kế thừa quan điểm tiếp tục xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, điểm mới của Đại hội XI so với Đại hội X là chủ trương tăng cường tính nghiêm minh của Pháp luật trong bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị của các di sản văn hóa. Đây là bước chuyển quan trọng từ việc chỉ dừng ở các định hướng chung sang yêu cầu cụ thể hóa các giải pháp mang tính ràng buộc pháp lý. Việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực văn hóa nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, ngăn chặn các hành vi xâm hại đến di sản văn hóa, đồng thời tạo cơ sở pháp lý vững chắc để huy động sự tham gia của toàn xã hội vào công tác bảo tồn. Chủ trương gắn việc phát huy giá trị các di sản với phát triển du lịch không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế mà còn góp phần quảng bá về Việt Nam với bạn bè quốc tế. Đảng đã định hướng kết hợp hài hòa giữa giữ gìn bản sắc và hội nhập, phát triển, vừa đảm bảo giá trị bền vững của di tích lịch sử – văn hóa, vừa tận dụng được lợi thế từ văn hóa trong thời đại toàn cầu hóa.

Đại hội XI của Đảng đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020. Cả trong quan điểm và định hướng phát triển, Chiến lược đều quan tâm đến lĩnh vực văn hóa, trong đó nhấn mạnh: “Coi trọng bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc. Nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân”{C}[9].

Sau hơn 15 năm thực hiện NQTƯ 5 khóa VIII về văn hóa lý luận về văn hóa của Đảng có bước phát triển góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc được gìn giữ, kế thừa và phát huy, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Cùng với quá trình hội nhập, giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và các nước trong khu vực và trên thế giới ngày càng phát triển. Ngày 9-6-2014, tại HNTƯ 9, khóa XI, Đảng ban hành Nghị quyết số 33–NQ/TW, về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Nghị quyết 33–NQ/TW đề ra định hướng xây dựng và phát triển văn hóa, con người. Mục tiêu chung là: “Xây dựng và phát triển văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”[10]. Để thực hiện mục tiêu, Nghị quyết đã đưa ra các nhiệm vụ cụ thể, trong đó, để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa cần: “Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu văn hóa dân tộc. Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế – xã hội. Bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử – văn hóa tiêu biểu, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế; gắn kết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch. Phục hồi và bảo tồn một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ mai một. Phát huy các di sản được UNESCO công nhận, góp phần quảng bá hình ảnh, đất nước và con người Việt Nam”[11]. Để thực hiện tốt các nhiệm vụ về văn hóa cần phải tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa, đồng thời cần tăng cường nguồn lực cho phát triển văn hóa. Nghị quyết số 33–NQ/TW là sự kế thừa những quan điểm, chủ trương, nội dung, giải pháp của NQTƯ 5 khóa VIII, tổng kết lý luận và thực tiễn về xây dựng và phát triển văn hóa, con người trong những năm qua, nhất là từ việc chỉ ra những thành tựu, hạn chế, yếu kém và nguyên nhân trong xây dựng và phát triển văn hóa, con người, Đảng đã có sự đổi mới trong tư duy về xây dựng và phát triển văn hóa, con người phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới. Nghị quyết 33 của Ban Chấp hành trung ương Đảng được quán triệt, triển khai trong toàn Đảng, toàn dân, đưa Nghị quyết vào trong cuộc sống, để văn hóa thực sự thấm sâu vào đời sống xã hội, là nguồn lực nội sinh phát triển đất nước thời kỳ mở cửa hội nhập.

Đại hội lần thứ XII của Đảng (2016) chủ trương: “Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại làm giàu văn hóa dân tộc xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý hài hòa giữa bảo tồn phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế xã hội”[12]. Điểm mới trong chủ trương của Đại hội XII của Đảng là “huy động sức mạnh toàn xã hội trong việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc” chủ trương này định hướng cho việc đẩy mạnh xã hội hóa đối với công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa nói chung, các di tích lịch sử – văn hóa nói riêng. Đồng thời chú trọng tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, tiếp thu những giá trị tốt đẹp của văn hóa nhân loại, làm giàu cho văn hóa truyền thống Việt Nam. Chủ động đón nhận cơ hội phát triển, vượt qua thách thức để giữ gìn, hoàn thiện bản sắc văn hóa dân tộc, hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn cầu hóa về văn hóa, phù hợp với yêu cầu mở cửa hội nhập, tăng cường giao lưu hợp tác trên các lĩnh vực, trong đó có văn hóa. Có thể thấy, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống nói chung, các di sản văn hóa, trong đó có các di tích lịch sử – văn hóa nói riêng không chỉ là nhiệm vụ của các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến địa phương, mà là nhiệm vụ của toàn xã hội, nhằm phát huy tối đa vai trò của các di tích lịch sử – văn hóa trong phát triển kinh tế, góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh.

Tại HNTƯ 8 khóa XII, Trung ương đã thông qua Kết luận số 37–KL/TW ngày 17-10-2018, trong đó công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử – văn hóa tiếp tục được quan tâm, thể hiện sự nhất quán trong chủ trương phát triển bền vững gắn với gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc. Đảng chú trọng: “Nâng cao hiệu quả các thiết chế văn hóa; bảo tồn, phát huy các giá trị di sản, văn hóa tốt đẹp”[13] Đặc biệt, HNTƯ 10 khóa XII (2019), đã chính thức nâng tầm vai trò của di tích lên thành nguồn lực văn hóa – phát triển, khẳng định tầm nhìn chiến lược trong việc gắn di tích với xây dựng bản sắc dân tộc, giáo dục công dân, phát triển du lịch và bảo vệ chủ quyền văn hóa trong bối cảnh hội nhập. Từ những định hướng bảo tồn mang tính gìn giữ truyền thống, tư duy của Đảng đã phát triển theo hướng tích hợp, chiến lược và phát triển bền vững, biến di tích lịch sử – văn hóa thành một phần không thể thiếu trong kiến trúc tổng thể của phát triển quốc gia. Đây không chỉ là sự phát triển về nhận thức, mà còn là minh chứng cho bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo văn hóa của Đảng trong kỷ nguyên toàn cầu hóa.

Đại hội lần thứ XIII của Đảng (2021), với nhiệm vụ trọng tâm: Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với sức mạnh thời đại. Đảng đã đưa các chủ trương, nhiệm vụ và giải pháp trong phát triển các lĩnh vực, đối với văn hóa, Đảng chủ trương: “Xây dựng, phát huy yếu tố văn hóa để thực sự là đột phá phát triển kinh tế – xã hội, hội nhập quốc tế. Khơi dậy tinh thần yêu nước, tính cộng đồng, ý chí tự lực tự cường, tự hào dân tộc và khát vọng vươn lên. Tăng cường công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể, các di tích lịch sử văn hóa”{C}[14].

Chủ trương của Đại hội XIII thể hiện bước phát triển tư duy của Đảng khi xác định văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần mà còn là một động lực trong phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế. Đặc biệt, Đảng nhấn mạnh yêu cầu tăng cường công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể, trong đó các di tích lịch sử – văn hóa giữ vai trò trung tâm trong việc khơi dậy bản sắc dân tộc và giáo dục truyền thống. Việc bảo vệ các di sản này không dừng lại ở khía cạnh lưu giữ, mà còn phải gắn với nhiệm vụ phát huy giá trị trong đời sống đương đại, phục vụ phát triển du lịch, giáo dục, và công nghiệp văn hóa. Đây là sự kết hợp hài hòa giữa bảo tồn và phát triển, giữa truyền thống và hiện đại, thể hiện rõ quan điểm phát triển bền vững của Đảng. Đồng thời, chủ trương này tiếp nối tư tưởng Hồ Chí Minh về việc gìn giữ bản sắc văn hoá và đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với toàn hệ thống chính trị trong việc đầu tư, số hóa, và nâng cao hiệu quả quản lý di tích lịch sử – văn hóa trong kỷ nguyên số.

Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đại hội XIII của Đảng, Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021 đã trở thành một dấu mốc quan trọng trong việc cụ thể hóa đường lối phát triển văn hóa của Đảng trong giai đoạn mới. Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021 đã xác lập rõ định hướng trong công tác bảo tồn di sản văn hóa, nhấn mạnh yêu cầu kết hợp hài hòa giữa bảo tồn và phát triển. Theo đó, việc bảo tồn các giá trị di sản văn hóa dân tộc cần được thực hiện theo hướng bền vững, gắn liền với giáo dục truyền thống và phát triển công nghiệp văn hóa. Quan điểm này thể hiện rõ nguyên tắc không hy sinh giá trị văn hóa cho những lợi ích kinh tế ngắn hạn, đồng thời đề cao vai trò của di sản như một nguồn lực chiến lược trong phát triển đất nước. Việc gắn bảo tồn với giáo dục và phát triển công nghiệp văn hóa cho thấy tư duy đổi mới trong cách tiếp cận văn hóa, không chỉ nhằm lưu giữ giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, mà còn thúc đẩy sự lan tỏa và thích ứng của di sản văn hóa, sự đóng góp của di tích lịch sử – văn hóa  trong thời kỳ mở cửa, hội nhập.

Hội nghị lần thứ Sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, tháng 10-2022 tiếp tục cụ thể hóa quan điểm về bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các di tích lịch sử – văn hóa của Đảng, thông qua Kết luận số 42–KL/TW ngày 20-10-2022, trong đó đối với công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các di tích lịch sử – văn hóa, Đảng nhấn mạnh như một trong những nhiệm vụ trọng tâm, gắn liền với phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội: “Quan tâm hơn việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị di sản, văn hóa dân tộc, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các vùng, miền, ưu tiên đầu tư xây dựng, nâng cấp và cải tạo hệ thống thiết chế văn hóa. Triển khai Chương trình quốc gia phát triển văn hóa giai đoạn 2022 – 2030”{C}[15]. Chủ trương của Đảng về văn hóa nói chung, bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các di tích lịch sử – văn hóa nói riêng qua các nhiệm kỳ Đại hội, Hội nghị Trung ương Đảng thể hiện rõ sự phát triển trong tư duy của Đảng, từ việc nhận thức vai trò của di tích lịch sử – văn hóa như một giá trị cần gìn giữ, đến việc coi đó là nguồn lực quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế.

Từ năm 1996 đến 2023, tư duy lý luận của Đảng về bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các di tích lịch sử – văn hóa đã có sự phát triển.  Đây là cơ sở quan trọng để tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị hệ thống di tích lịch sử – văn hóa trong công cuộc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vì mục tiêu phát triển bền vững đất nước trong kỷ nguyên mới.

 

Ngày gửi: 17-5-2025; ngày thẩm định: 25-5-2025; ngày duyệt đăng 20-6-2025

1, 2, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, phần I – Đại hội VI,VII,VIII, IX, Nxb CTQG ST, H, 2019, tr. 710, 710, 931

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb CTQG ST, H, 1998,  tr. 63

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG ST, H, 2013,  T. 63, tr. 390–391

6, 8, 9, 12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, phần II – Đại hội X,XI,XII, Nxb CTQG ST, H, 2019, tr.119, 427, 482, 673.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ Chín Ban Chấp hành Trung ương khoá X, Nxb CTQG, H, 2009,  tr. 183.

10, 11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ Chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Công ty in Tiến Bộ, H, 2014, tr.46–47, 54.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Công ty in Tiến Bộ, H, 2018, tr. 55

14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H, 2021, T.2, tr. 134–135

15. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ Sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb CTQGST, H, 2022, tr. 184.

 

NGUYỄN THỊ THU DUNG

 

Trường Đại học Hoa Lư - Ninh Bình
1. Quan điểm của Đảng về bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử – văn hóa (1996 – 2011) Đại hội lần thứ VIII (1996) của Đảng đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa chiến lược; đặc biệt, đã vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội kéo dài suốt 15 năm. Con đường đi lên CNXH ngày càng được xác định rõ ràng và phù hợp hơn với thực tiễn. Trước những thời cơ và thách thức của giai đoạn phát triển mới, Đảng đã đề ra nhiều chủ trương lớn nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh các chủ trương về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng và an ninh, văn hó

Tin khác cùng chủ đề

Dấu ấn của những Tổng Bí thư gắn với những thắng lợi tiêu biểu của cách mạng Việt Nam (Kỳ 1)
Tháng 3 ở Ninh Vân!
Phát huy giá trị bộ bản đồ và tư liệu "Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý" trong công tác thông tin, tuyên truyền hiện nay
"Điện Biên Phủ - Trận đánh của thế giới"
KỶ NIỆM 49 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG TỈNH KHÁNH HÒA (2-4-1975 - 2-4-2024): TRANG SỬ HÀO HÙNG VÀ CHÓI LỌI
Nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Gửi bình luận của bạn