Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là một mốc son chói lọi, một trang sử huy hoàng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, mở ra một kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến thắng lợi này là do những quyết sách đúng đắn trong chỉ đạo chiến lược của Đảng, mở đầu bằng quyết định mở Chiến dịch Tây Nguyên, thể hiện tầm nhìn và sự chỉ đạo chiến lược xuất sắc của Đảng, tạo tiền đề cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Quyết tâm mở chiến dịch Tây Nguyên – Thành công xuất sắc về chỉ đạo chiến lược của Đảng
Quyết tâm mở chiến dịch Tây Nguyên – Thành công xuất sắc về chỉ đạo chiến lược của Đảng

1. Quyết tâm mở chiến dịch Tây Nguyên – Dự báo mang tầm chiến lược của Đảng

Đến giữa năm 1974, những cuộc phản công và tiến công thắng lợi của quân giải phóng miền Nam đã đánh bại kế hoạch lấn chiếm, bình định và thu hẹp vùng kiểm soát của chính quyền Sài Gòn. Trước tình hình đó, quân đội Sài Gòn yêu cầu được cứu viện, tuy nhiên, Tổng thống Mỹ R. Nichxơn đã thẳng thừng bác bỏ. Tình hình mới đặt ra cho cách mạng Việt Nam nhu cầu cấp bách phải kịp thời phá tan âm mưu của đế quốc, tranh thủ thời cơgiải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Tại nước Mỹ nội bộ mâu thuẫn sâu sắc, phong trào phản đối chiến tranh xâm lược Việt Nam tăng cao, R. Nichxơn buộc phải từ chức Tổng thống Mỹ. Ở miền Nam Việt Nam, chính quyền Sài Gòn ngày càng gặp khó khăn, do Quốc hội Mỹ cắt ngân sách viện trợ quân sự cho cuộc chiến tranh ở Đông Dương trong 6 tháng còn lại của năm tài chính 1974.

 Nhận thức sâu sắc tình hình chiến trường và những khó khăn của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, ngày 21-7-1974, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã họp với một số đồng chí Thường trực Quân ủy Trung ương tại Đồ Sơn (Hải Phòng) bàn việc chuẩn bị kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam, chuẩn bị cho Hội nghị Bộ Chính trị. Trên cơ sở phân tích tình hình, đồng chí Lê Duẩn cho rằng, nếu dứt điểm trong thời gian ngắn, sẽ tạo ra bất ngờ đối với Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Đồng chí yêu cầu: “Bộ Tổng tham mưu tiếp tục rà soát và điều chỉnh phương án tác chiến, trình Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương”1. Trên tinh thần đó, Bộ Tổng tham mưu được giao nhiệm vụ chuẩn bị kế hoạch chiến lược giành thắng lợi lớn năm 1975, giành thắng lợi quyết định năm 1976 để trình Bộ Chính trị. Nếu xảy ra đột biến, tốc độ sẽ nhanh hơn.

Nửa cuối năm 1974, nhiều sự kiện lớn diễn ra tác động trực tiếp tới sự chỉ đạo của Đảng2. Trong đó, sự kiện quân giải phóng tiêu diệt chi khu quân sự Thượng Đức ở Khu 5 (từ 29-7-1974 đến ngày 7-8-1974), giải phóng quận lỵ Thượng Đức có ý nghĩa quan trọng. Bởi lẽ, Thượng Đức là vị trí án ngữ cửa ngõ của căn cứ liên hợp Đà Nẵng. Lần đầu tiên một sư đoàn chủ lực quân giải phóng cùng quân và dân địa phương đánh bại một sư đoàn dự bị chiến lược của quân đội Việt Nam Cộng hoà. Cùng với một số thắng lợi trên các chiến trường3, trận Thượng Đức cho thấy lực lượng chủ lực quân giải phóng đã mạnh hơn lực lượng chủ lực cơ động Việt Nam Cộng hòa. Một hình thái mới bắt đầu xuất hiện: quân đội Việt Nam Cộng hòa không còn khả năng chiếm lại các vị trí đã mất. Đối với cấp chiến lược, nhận định đầy sức thuyết phục này có liên quan rất lớn đến việc hạ quyết tâm chiến lược.

Căn cứ vào sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam bổ sung kế hoạch chiến lược. Trong vòng một năm (từ tháng 4-1973 đến tháng 5-1974), kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam được soạn thảo, chỉnh lý, bổ sung nhiều lần. Sau nhiều cuộc trao đổi, thảo luận, bản dự thảo kế hoạch chiến lược với tên gọi Kế hoạch giành thắng lợi ở miền Nam sau vài ba năm làm thay đổi so sánh lực lượng ở miền Nam, mang số 133/TG1, hoàn thành ngày 16-5-1974. Trong thời gian này, Trung ương Cục miền Nam và Quân uỷ Miền gửi Trung ương và Quân uỷ Trung ương Kế hoạch hoạt động mùa khô 1974-1975, với quyết tâm giành thắng lợi quyết định, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976. Như vậy, Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương và các chiến trường đã gặp nhau trong quyết tâm giành thắng lợi quyết định trong năm 1975 - 1976. Vấn đề còn lại là phương án hành động tối ưu để giành thắng lợi sớm nhất, ít tổn thất nhất.

Ngày 26-8-1974, Dự thảo kế hoạch tác chiến (sửa chữa bổ sung lần thứ bảy) đã được gửi tới đồng chí Lê Duẩn, các Ủy viên Bộ Chính trị và Thường trực Quân ủy Trung ương. Từ ngày 30-9 đến ngày 8-10-1974, Bộ Chính trị họp Hội nghị (mở rộng), với sự tham gia của các đồng chí trong Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tham mưu họp (đợt 1) bàn về chủ trương giải phóng hoàn toàn miền Nam. Sau khi phân tích tình hình mọi mặt, Bộ Chính trị khẳng định: “Đây là thời cơ thuận lợi nhất để nhân dân ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, giành thắng lợi trọn vẹn cho cách mạng dân tộc, dân chủ, đồng thời giúp Lào và Campuchia hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngoài thời cơ này, không có thời cơ nào khác. Nếu để chậm mươi, mười lăm năm nữa, bọn ngụy gượng dậy được, các thế lực xâm lược được hồi phục thì tình hình sẽ phức tạp vô cùng”4.

Đánh giá tổng quát tình hình giữa ta và địch, Hội nghị khẳng định: “Chúng ta đang có thời cơ. Hai mươi năm chiến đấu mới tạo được thời cơ này, chúng ta phải biết nắm lấy để đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn…”5. Bộ Chính trị đã thảo luận, cân nhắc kỹ lưỡng khả năng Mỹ đưa quân trở lại miền Nam và đã thống nhất nhận định, bản chất Mỹ rất ngoan cố và còn nhiều âm mưu thâm độc. Nhưng Mỹ “đã ra thì việc quay lại không phải dễ…, ta phán đoán Mỹ không có khả năng quay lại…Dù Mỹ có can thiệp trở lại trong chừng mực nào thì chúng cũng không xoay chuyển được tình thế, và ta vẫn thắng”6.

Trên cơ sở phân tích so sánh lực lượng giữa ta và địch sau Hiệp định Paris, Hội nghị cho rằng “sự suy yếu của địch là toàn diện”7. Về phía ta, “phải nhận rõ những khả năng và lực lượng to lớn mà chúng ta cần và có thể huy động được, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh thắng trong cuộc đọ sức cuối cùng với địch”8. Đó là: sức mạnh của cả nước đánh giặc, sức mạnh cách mạng miền Nam và “sức mạnh lớn nhất, quyết định nhất là ở miền Bắc, ở hậu phương… dốc vào cuộc chiến đấu quyết định này những binh đoàn chủ lực tinh nhuệ, hầu hết lực lượng dự bị chiến lược và nguồn dự trữ dồi dào của miền Bắc”9; những thắng lợi mới của cách mạng Lào và Campuchia cùng với sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của các nước anh em và của loài người tiến bộ.

Từ thực tế đó, Bộ Chính trị nêu ra nhiệm vụ trung tâm trước mắt là: “Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân nguỵ, đánh chiếm Sài Gòn, sào huyệt trung tâm của địch cũng như tất cả các thành thị khác, đánh đổ nguỵ quyền ở trung ương và các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất nước nhà10.  Theo phương hướng đó, Hội nghị quyết định giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976.

Từ ngày 8-12-1974 đến 7-1-1975, Bộ Chính trị tiếp tục họp (đợt hai). Các đồng chí lãnh đạo chỉ huy chủ chốt ở chiến trường Nam Bộ và Khu V được mời tham dự. Hội nghị đã thảo luận ba vấn đề cụ thể: lực lượng so sánh ta - địch diễn ra từ sau Hiệp định Paris đến lúc này; những yêu cầu phải đạt của kế hoạch hai năm 1975-1976 và nhiệm vụ cụ thể của từng chiến trường. Hội nghị cho rằng, thế mới và lực mới của cách mạng đã thể hiện trên các mặt sau: một là, ta đã giành quyền chủ động tiến công địch trên khắp các chiến trường; hai là, ta đã củng cố và hoàn chỉnh thế chiến lược liên hoàn từ Bắc vào Nam, từ rừng núi Trị - Thiên đến Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long; ba là, ta đã xây dựng và tăng cường các binh đoàn chủ lực cơ động ở vùng rừng núi, tập trung được nguồn dự trữ chiến lược trên những địa bàn quan trọng; bốn là, ta đã cải thiện được tình hình nông thôn đồng bằng; năm là, ta đã phát động được phong trào đấu tranh chính trị dưới khẩu hiệu hòa bình, độc lập, hòa hợp dân tộc; sáu là, ta tiếp tục tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ của các lực lượng cách mạng và nhân dân tiến bộ trên thế giới11. Về phía địch, thế của chúng ngày càng xấu, lực của chúng ngày càng suy, biểu hiện ở chỗ: quân ngụy ở thế phòng ngự, bị động, bảo an, dân vệ bị tan rã từng mảng; hỏa lực, cơ động và trình độ hiệp đồng của quân chủ lực ngụy giảm sút nghiêm trọng; tinh thần quân ngụy đang xuống dốc, kế hoạch bình định đang phá sản; nội bộ ngụy rối loạn. “Trước tình hình quân sự, chính trị, kinh tế đó, Nguyễn Văn Thiệu khó bề đứng vững”12.

Căn cứ vào thế và lực so sánh giữa ta và địch, Bộ Chính trị khẳng định: “Chúng ta nhất trí phải gấp rút chuẩn bị mọi mặt để kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh cứu nước trong năm 1975 hoặc năm 1976… Chúng ta phải cố gắng cao nhất để thắng gọn trong năm 1975. Điều đó là một khả năng hiện thực”13. Bộ Chính trị nhấn mạnh: “Trận quyết chiến chiến lược này là một sự nghiệp trọng đại. Nó sẽ đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đến thắng lợi hoàn toàn, góp phần làm thay đổi cục diện ở Đông Dương, Đông Nam Á, mở ra một bước phát triển mới trong phong trào cách mạng của nhân dân thế giới’14.

Ngày 6-1-1975, một ngày trước khi Hội nghị kết thúc, quân ta giải phóng thị xã Phước Long. Chiến thắng Phước Long đã cổ vũ quân, dân cả nước, bên cạnh đó cũng cho thấy khả năng quân Mỹ quay trở lại miền Nam không còn nữa, điều đó cho thấy khả năng giải phóng miền Nam có thể tiến hành với nhịp độ lớn hơn, nhanh hơn. Chiến thắng Phước Long là một nhân tố mới rất quan trọng để Bộ Chính trị thông qua kế hoạch chiến lược hai năm 1975-1976. Ngoài kế hoạch chiến lược cơ bản hai năm, Bộ Chính trị còn dự kiến phương án nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975, thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.

Kết thúc Hội nghị, Bộ Chính trị chỉ rõ: “Nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc…, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội”15; “tiến tới tổng tiến công và nổi dậy, thắng địch tại sào huyệt quan trọng nhất của chúng là Sài Gòn, để kết thúc chiến tranh”16. Năm 1975, chiến trường Nam Bộ có nhiệm vụ đánh phá bình định, đánh quân chủ lực Sài Gòn, vây ép thành thị. Khu V, Tây Nguyên tạo điều kiện cho chủ lực cơ động tiến nhanh vào miền Đông. Nếu có khả năng thì mở ra từ Buôn Ma Thuột, xuống đồng bằng đến Tuy Hòa. Cắt đồng bằng khu V làm đôi, tạo thêm một hướng tiến nhanh vào Sài Gòn, giải phóng từ Bình Định trở ra để ép địch về phía Đà Nẵng, Trị - Thiên, làm chủ Nam thành phố Huế, chia cắt Huế với Đà Nẵng. Chúng ta phải cố gắng cao nhất để thắng gọn trong năm 1975.

Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10-1974 và tháng 1-1975 có ý nghĩa soi đường cho quân và dân ta chớp lấy thời cơ lịch sử, giáng cho địch những đòn quyết định, xóa bỏ chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước. Đầu năm 1975, sau thắng lợi giải phóng tỉnh Phước Long, Bộ Chính trị và Thường vụ Quân ủy Trung ương quyết định chọn hướng tiến công chính là Nam Tây Nguyên, mục tiêu chủ yếu, trận mở đầu là đánh chiếm Buôn Ma Thuột. Quyết định này được hình thành trên cơ sở phân tích khoa học thế và lực của ta và địch, xu thế phát triển của trong giai đoạn cuối của chiến tranh, căn cứ vào sự bố trí lực lượng và âm mưu chiến lược của Mỹ - ngụy trên chiến trường và kết quả công tác chuẩn bị của ta trong hai năm 1973 - 1974.

2. Thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên – Minh chứng sinh động về thành công trong chỉ đạo chiến lược của Đảng

Đầu tháng 12-1974, dưới sự chỉ huy của các cố vấn Mỹ, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu họp với các tư lệnh quân khu, quân đoàn để chuẩn bị kế hoạch đối phó. Mỹ và Nguyễn Văn Thiệu đều cho rằng, phương hướng tiến công chính của ta là Nam Bộ. Về thời gian, địch phán đoán ta sẽ đánh trước hoặc sau Tết Nguyên đán cho tới tháng 6, khi mùa mưa đến sẽ dừng. Xuất phát từ những nhận định như trên, chúng không thay đổi thế bố trí lực lượng mạnh ở hai đầu là Trị - Thiên (Quân khu I) và miền Đông Nam Bộ (Quân khu III). Nhận rõ vị trí quan trọng của Tây Nguyên, địch đã bố trí ở đây phần lớn các đơn vị chủ lực cơ động của Quân đoàn 2. Nhưng chúng lại cho rằng, nếu đánh Tây Nguyên, ta sẽ tiến công từ hướng Bắc xuống, nên đã tập trung lực lượng vào khu vực phòng thủ chính là Bắc Tây Nguyên (Plâycu – Kon Tum).

Khi quyết định mở chiến dịch Tây Nguyên, với mục tiêu chủ yếu là thị xã Buôn Ma Thuột, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy cho rằng, đó sẽ là một đòn rất hiểm, đánh vào nơi địch yếu, có nhiều chủ quan, sơ hở. Thị xã Buôn Ma Thuột có vị trí rất cơ động do nằm ở ngã ba của hai con đường chiến lược: đường số 21 nối liền với Nha Trang và đường số 14, phía Bắc đi Cheo Reo, Plâycu, phía Nam đi Gia Nghĩa và vào miền Đông Nam Bộ. Đánh chiếm Buôn Ma Thuột, làm chủ Nam Tây Nguyên, ta có ba hướng phát triển: lên phía Bắc, giải phóng Plâycu - Kon Tum, tiến xuống đồng bằng ven biển Trung Bộ, thọc thẳng vào miền Đông Nam Bộ và Sài Gòn. Chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi sẽ tạo ra bất ngờ lớn, làm đảo lộn thế phòng thủ của địch trên toàn chiến trường. Với ý nghĩa quan trọng của chiến dịch Tây Nguyên, đặc biệt là trận mở đầu Buôn Ma Thuột, Bộ Chính trị quyết định cử Đại tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam vào chiến trường Tây Nguyên thành lập cơ quan đại diện của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên được thành lập. Các đoàn xe vận tải, xe chở quân xuất phát từ hậu phương lớn miền Bắc, bí mật tiến vào chiến trường Nam Tây Nguyên.

Tây Nguyên là một vùng đất rộng lớn ở phía Tây miền Trung Trung Bộ, là một địa bàn rất quan trọng về chính trị, kinh tế và quân sự. Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đều cho rằng muốn chiến thắng ở Nam Việt Nam, phải kiểm soát được Tây Nguyên. Do đó, trong quá trình tiến hành chiến tranh xâm lược, chúng đã xây dựng ở Tây Nguyên một hệ thống đường giao thông hiện đại, nhiều sân bay, kho tàng, trại biệt kích nằm dọc biên giới, biến Tây Nguyên thành một khu căn cứ quân sự lớn, một điểm xuất phát các cuộc hành quân đàn áp phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ba nước Đông Dương; đồng thời, xây dựng ở Tây Nguyên những phòng tuyến ngăn chặn đường vận tải chiến lược của ta từ Bắc vào Nam, ngăn chặn sự giao lưu giữa miền núi với đồng bằng Trung Bộ. Năm 1975, Tây Nguyên có khoảng hơn một triệu dân, trong đó 64% là đồng bào các dân tộc ít người. Tây Nguyên là một vùng căn cứ kháng chiến vững chắc, là địa bàn tác chiến quan trọng của bộ đội chủ lực. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Khu ủy Khu V, Đảng ủy mặt trận Tây Nguyên và các cấp ủy đảng địa phương đã đề ra và thực hiện nhiều chủ trương cụ thể về xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang; xây dựng và bảo vệ tuyến hậu cần chiến lược Bắc - Nam; xây dựng Tây Nguyên thành một căn cứ liên hoàn vững chắc, phối hợp với các chiến trường khác trên toàn Miền và chiến trường ba nước Đông Dương.

Đến mùa Xuân năm 1975, vùng giải phóng Tây Nguyên được mở rộng, tương đối hoàn chỉnh, đặc biệt là từ Bắc Kon Tum xuống đến Nam Đắc Lắc. Nhân dân các dân tộc Tây Nguyên phấn khởi tham gia các hoạt động cách mạng, hăng hái đi dân công, làm đường, vận tải hàng hóa. Trên các con đường vận tải, hành quân chiến lược và đường ống dẫn xăng dầu từ hậu phương lớn miền Bắc, theo triền phía Đông dãy Trường Sơn, qua Tây Nguyên vào đến miền Đông Nam Bộ, hàng nghìn bộ đội công binh, thanh niên xung phong, dân công từ các tỉnh miền Bắc và đồng bào các dân tộc địa phương ngày đêm bắc cầu, làm ngầm, mở rộng và nâng cấp cầu đường. Các căn cứ hậu cần ở Bắc, Trung Tây Nguyên nối liền với Nam Tây Nguyên, đi qua các vùng giải phóng đến vị trí tập kết trên các hướng tác chiến của bộ đội. Ở Nam Tây Nguyên, ta mở thêm nhiều đường cơ giới, đường gùi thồ hướng về thị xã Buôn Ma Thuột. Trên một ngàn xe vận tải của Đoàn 559 của Tổng cục hậu cần, của các quân khu và Bộ giao thông vận tải tấp nập chuyển hàng vào Nam Tây Nguyên.

Đến cuối tháng 2-1975, quân và dân ta đã dự trữ ở Tây Nguyên gần 54.000 tấn vật chất, trong đó có 7.286 tấn đạn, 28.600 tấn gạo, thực phẩm đủ bảo đảm cho các lực lượng vũ trang hoạt động trong cả năm 1975 và đã huy động được một lực lượng quân sự lớn, gồm nhiều thành phần binh chủng tham gia chiến dịch. Dưới sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, với sự tham gia của tất cả các ngành, các cấp trong và ngoài quân đội, “mọi yêu cầu của chiến dịch đều cố gắng bảo đảm được. Quân no, lực lượng lớn, vũ khí lương thực đủ, tinh thần phấn chấn, khí thế cao. Chưa bao giờ ta mạnh và đánh tập trung lớn ở đây như năm nay”17.

Để phối hợp với đòn tiến công quân sự, Tỉnh ủy Đắk Lắk đề ra kế hoạch cụ thể về chuẩn bị chiến trường, tổ chức nhiều đội công tác chính trị đi cùng bộ đội phát động quần chúng nổi dậy; đồng thời có kế hoạch phân công cụ thể cho các huyện chuẩn bị sẵn sàng truyền đơn, lời kêu gọi, thông báo, kêu gọi binh sĩ ngụy ra hàng, trấn áp bọn ác ôn, chuẩn bị thành lập Ủy ban cách mạng ở vùng giải phóng. Ở Gia Lai và Kon Tum, Tỉnh ủy thành lập Ban chỉ đạo tác chiến để phối hợp với bộ đội chủ lực. Các đoàn đội công tác18 đều được chấn chỉnh tổ chức, tập huấn về chính trị, quân sự. Thực hiện kế hoạch nghi binh đã thống nhất với Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, Tỉnh ủy, Tỉnh đội Gia Lai và Kon Tum huy động hàng nghìn dân công các huyện 40, 67, 30, 80, Diên Bình, Tân Cảnh (Kon Tum) huyện 4, huyện 5 (Gia Lai) đi làm đường hướng về thị xã19 và tung tin ta “chuẩn bị đánh Kon Tum, Plâycu”. Bộ đội địa phương tỉnh và dân quân du kích diệt một số đồn địch, mở rộng thêm vùng giải phóng, thu hút sự chú ý của địch lên hướng Bắc Tây Nguyên.

Ngày 17-2-1975, Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên thông qua kế hoạch cụ thể đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột, thực hiện tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương là “tranh thủ bất ngờ cao độ, bảo đảm trận đầu thắng giòn giã và có dự kiến kế hoạch phát triển thắng lợi kịp thời, diệt được nhiều sinh lực địch, giải phóng các địa bàn quan trọng”20. Từ ngày 1 đến ngày 4-3-1975, các lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc Tây Nguyên tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động nghi binh, tạo thế, triển khai lực lượng và thực hành bao vây, chia cắt chiến dịch. Ngày 4-3, quân ta đánh và cắt các con đường chiến lược số 19, số 21, số 14. Việc giao thông của địch giữa thị xã Quy Nhơn với Plâycu, Kon Tum; giữa thị xã Nha Trang với Buôn Ma Thuột, Gia Nghĩa và giữa thị xã Plâycu, Cheo Reo với thị xã Buôn Ma Thuột bị ngừng trệ hoàn toàn. Quân địch ở Tây Nguyên bị hãm vào thế cô lập, bị chia cắt với lực lượng ở vùng duyên hải Trung Bộ. Toàn bộ lực lượng địch ở Tây Nguyên bị cắt thành hai cụm Bắc và Nam, không chi viện, ứng cứu được cho nhau bằng đường bộ. Ngày 8-3, ta đánh chiếm quận lỵ Thuần Mẫn. Ngày 9-3, ta đánh chiếm quận lỵ Đức Lập, Đắc Song, Núi Lửa, mở thông hoàn toàn đường vận tải chiến lược Bắc - Nam ở phía Đông Trường Sơn. Phía Bắc Tây Nguyên, ta đánh chiếm quận lỵ Thanh An áp sát phía Tây thị xã Plâycu.

Trong khi đó, ở Tây Nguyên, CIA và Bộ Tổng tham mưu quân đội Việt Nam Cộng hòa vẫn khẳng định: hướng đối phó chính là Plâycu và Kon Tum. Chúng cho rằng hành động cắt đường số 19, 14 và 21 chỉ là hoạt động phối hợp của ta. Có thể nói, cho đến khi quân và dân ta đã dàn xong thế trận tiến công địch ở Nam Tây Nguyên, nhằm vào mục tiêu then chốt là thị xã Buôn Ma Thuột, Mỹ và chính quyền Sài Gòn vẫn tiếp tục phán đoán sai kế hoạch tác chiến của ta. Quân đội và nhân dân các tỉnh Tây Nguyên đã hoàn thành công tác chuẩn bị theo kế hoạch, tạo ra những nhân tố chắc thắng cho trận đánh mở đầu.

1 giờ 35 phút ngày 10-3, bộ đội đặc công nổ súng đánh sân bay Hòa Bình, khu kho Mai Hắc Đế, mở màn cuộc tiến công thị xã Buôn Ma Thuột. Chiến sự diễn biến ác liệt ở các khu vực Ngã Sáu, Khu hành chính, Khu thiết giáp, Sở chỉ huy Tiểu khu Đắk Lắk. Mỹ và Việt Nam Cộng hòa biết ý định đánh chiếm Buôn Ma Thuột của ta thì đã muộn. Nhưng chúng vẫn cho rằng mức độ tiến công của ta không hơn mùa Xuân năm 1968. Nếu trụ lại được 3 đến 4 ngày thì có thể đẩy lùi quân ta ra khỏi thị xã. Với cách nhìn nhận đó, chúng ra lệnh cho binh lính còn lại “tử thủ Buôn Ma Thuột bằng mọi giá”. Cùng ngày 10-3, ở Trung Bộ, quân và dân ta đánh chiếm quận lỵ Tiên Phước, Phước Lâm, uy hiếp thị xã Tam Kỳ. Ở Thừa Thiên, quân ta đánh chiếm một số vị trí địch trên đường số 14. Ở Nam Bộ, ta đánh mạnh ở Tây Ninh, Bình Long. Quân địch bị chia cắt và căng kéo, đối phó lúng túng.

11 giờ ngày 11-3, bộ đội ta đánh chiếm sở chỉ huy Sư đoàn 23 quân đội Việt Nam Cộng hòa - mục tiêu cuối cùng trong thị xã Buôn Ma Thuột. Hơn 1.000 tên lính bị bắt sống, trong đó có đại tá tỉnh trưởng Đắk Lắk, đại tá sư đoàn phó Sư đoàn 23 quân đội Việt Nam Cộng hòa và viên đại diện lãnh sự quán Mỹ. Ta thu nhiều chiến lợi phẩm, trong đó có hơn 100 tấn đạn pháo là loại đạn ta đang thiếu và cần nhất lúc này. Trận Buôn Ma Thuột là “một đòn điểm đúng huyệt”, gây phản ứng dây chuyền về quân sự, chính trị trong chính quyền, quân đội Việt Nam Cộng hòa, tác động tới cả nước Mỹ. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cay cú “vì Buôn Ma Thuột bị tấn công bất ngờ”.

Thắng lợi ở Buôn Ma Thuột, Đức Lập trên đường số 19 và các hướng khác chứng tỏ, ta có khả năng giành thắng lợi to lớn với nhịp độ nhanh hơn dự kiến. Trên thực tế, cuộc tổng tiến công chiến lược năm 1975 đã mở đầu thắng lợi bằng chiến thắng Buôn Ma Thuột. Nhưng vào thời điểm ngày 11-3, với tinh thần thận trọng, Bộ Chính trị chỉ mới nhận định cuộc tổng tiến công chiến lược có thể đã bắt đầu. Cục diện chiến trường đang chuyển biến mau lẹ. Trước mắt, Bộ Chính trị chủ trương củng cố vùng mới giải phóng, sẵn sàng đánh địch phản kích; đồng thời, mở rộng tiến công ra xung quanh thị xã Buôn Ma Thuột, giải phóng hoàn toàn tỉnh Đắk Lắk; bao vây, cô lập Plâycu, Kon Tum, nhanh chóng phát triển về hướng Cheo Reo.

Ngày 12-3, Bộ Tổng tư lệnh thông báo cho Bộ Tư lệnh chiến dịch tin địch đang chuẩn bị lực lượng phản kích. Bộ Tổng tư lệnh nhấn mạnh nhiệm vụ cấp thiết nhất của mặt trận là tập trung lực lượng nhanh chóng tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Buôn Ma Thuột và viện binh của chúng. Việc đó “sẽ có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của chiến dịch”21. Bộ Tư lệnh chiến dịch đã kịp thời truyền đạt tinh thần chỉ đạo của Bộ đến các đơn vị. Từ ngày 12 đến ngày 18-3, với một loạt trận đánh xuất sắc, quân ta đập tan hoàn toàn cuộc phản kích “tái chiếm Buôn Ma Thuột” của Quân đoàn 2 Sài Gòn, tiêu diệt hoàn toàn Sư đoàn 23, một sư đoàn được quân Sài Gòn suy tôn là “Nam bình, Bắc phạt, Cao nguyên trấn”. Tiếp theo trận “điểm đúng huyệt” Buôn Ma Thuột, trận tiêu diệt Sư đoàn 23, đập tan ý đồ phản kích tái chiếm của địch đã đẩy nhanh tốc độ phát triển của chiến dịch, làm cho quân địch thêm lúng túng, bị động, rối loạn về chỉ đạo chiến lược.

Ngày 13-3, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu triệu tập Hội đồng An ninh quốc gia họp khẩn cấp bàn biện pháp đối phó. Ngày 14-3, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Tổng tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn Cao Văn Viên và Tư lệnh Quân đoàn 2 Phạm Văn Phú họp kín ở Cam Ranh bàn kế hoạch rút khỏi Plâycu và Kon Tum theo đường số 7. Căn cứ vào dự kiến của Bộ Chính trị và sự phân tích mới nhất về âm mưu và hành động của địch, chiều ngày 15-3, cơ quan đại diện Bộ Tổng tư lệnh tại mặt trận thông báo cho Bộ Tư lệnh chiến dịch “khả năng địch rút chạy khỏi Kon Tum và Plâycu”. Khi được thông báo, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã gấp rút triển khai ngay kế hoạch ngăn chặn, không cho địch rút chạy và tổ chức lực lượng truy kích tiêu diệt chúng. Cuộc truy kích thần tốc tám ngày đêm (từ 17 đến 24-3) thắng lợi giòn giã. Toàn bộ cánh quân rút chạy của địch bị tiêu diệt. Ta bắt sống 8.000 tên, thu và phá hủy 14.000 xe quân sự. Âm mưu và kế hoạch rút chạy nhằm co cụm, bảo toàn lực lượng của địch bị đập tan. Cuộc rút chạy lớn diễn ra với kết cục bi thảm báo hiệu sự sụp đổ không thể tránh khỏi và nhanh chóng của quân đội Sài Gòn. Trong khi đó, ở Bắc Tây Nguyên, ngày 17-3-1975, các lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân các dân tộc phối hợp với một bộ phận bộ đội chủ lực giải phóng thị xã Kon Tum và thị xã Plâycu. Ngày 25-3-1975, Tây Nguyên hoàn toàn giải phóng. Phát huy thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên, Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương quyết định mở chiến dịch Huế - Đà Nẵng và các chiến dịch tiếp theo, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Quyết tâm mở chiến dịch Tây Nguyên và giành thắng lợi, thể hiện tầm nhìn và sự chỉ đạo chiến lược xuất sắc của Đảng, tạo tiền đề cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày 30-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đỉnh cao của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 toàn thắng. Thắng lợi của đại thắng mùa Xuân 1975 là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn và sự chỉ đạo chiến lược sáng tạo, linh hoạt của Đảng và trên hết là thắng lợi của ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và khát vọng hòa bình, thống nhất non sông của toàn thể dân tộc Việt Nam.

 

Ngày nhận bài:24-3-2025; ngày thẩm định, đánh giá: 29-3-2025; ngày duyệt đăng: 31-3-2025

* Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

** Trường Cao đẳng Sư phạm Điện Biên

1. Đại tướng Hoàng Văn Thái: Những năm tháng quyết định, Nxb QĐ ND, H.1985, tr. 131

2. Quốc hội Mỹ tiếp tục cắt giảm viện trợ cho nguỵ quyền Sài Gòn chỉ còn 701 triệu đôla cho tài khoá 1974-1975, không bằng một nửa số viện trợ trong tài khóa 1972-1973.

3. Ở Nông Sơn, Tiên Phước, Minh Long (Khu V) Tánh Linh (Khu VI), Nha Bích, Tống Lê Chân (Đông Nam Bộ),

4, 5, 6, 7, 8, 9, 10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H. 2004, T. 35, tr. 179, 185, 179, 182, 183, 183, 185

11, 12, 13, 14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, T.36, tr.3, 5, 6, 11

15, 16. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đại thắng mùa Xuân 1975, Nxb. CTQG, H.2005, tr. 26, 28

17. Điện ngày 9-3-1975 của Tiền phương Bộ ở mặt trận Tây Nguyên gửi Quân ủy Trung ương và Bộ Chính trị, lữu trữ tại Bộ Quốc phòng.

18. Ở Gia Lai, Tỉnh ủy tổ chức được 48 đội công tác huyện (366 cán bộ), 27 đội công tác xã (187 cán bộ) hoạt động ở 68 khu ấp và vùng ven thị xã, thị trấn. Tỉnh còn điều động hàng trăm cán bộ các ngành về vùng “trọng điểm” phối hợp hoạt động với cán bộ địa phương

19. Ở Tây Nguyên, một số huyện được đặt tên bằng số

20. Điện ngày 21-2-1975 của Quân ủy Trung ương gửi Bộ tư lệnh chiến dịch, lưu trữ tại Bộ Quốc phòng.

21. Điện ngày 12-3-1975, Lưu trữ tại Bộ Quốc phòng.

PGS, TS NGUYỄN DANH TIÊN*
ThS DƯƠNG THỊ PHƯƠNG LAN**

1. Quyết tâm mở chiến dịch Tây Nguyên – Dự báo mang tầm chiến lược của Đảng Đến giữa năm 1974, những cuộc phản công và tiến công thắng lợi của quân giải phóng miền Nam đã đánh bại kế hoạch lấn chiếm, bình định và thu hẹp vùng kiểm soát của chính quyền Sài Gòn. Trước tình hình đó, quân đội Sài Gòn yêu cầu được cứu viện, tuy nhiên, Tổng thống Mỹ R. Nichxơn đã thẳng thừng bác bỏ. Tình hình mới đặt ra cho cách mạng Việt Nam nhu cầu cấp bách phải kịp thời phá tan âm mưu của đế quốc, tranh thủ thời cơ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Tại nước Mỹ nội bộ mâu thuẫn sâu sắc, phong trào phản đối chiến tranh xâm lược Việt Nam tăng cao, R. Nichxơn buộc

Tin khác cùng chủ đề

Dấu ấn của những Tổng Bí thư gắn với những thắng lợi tiêu biểu của cách mạng Việt Nam (Kỳ 1)
Tháng 3 ở Ninh Vân!
Phát huy giá trị bộ bản đồ và tư liệu "Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý" trong công tác thông tin, tuyên truyền hiện nay
"Điện Biên Phủ - Trận đánh của thế giới"
KỶ NIỆM 49 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG TỈNH KHÁNH HÒA (2-4-1975 - 2-4-2024): TRANG SỬ HÀO HÙNG VÀ CHÓI LỌI
Nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Gửi bình luận của bạn