Trong tổng thể đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đ tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho sự vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bài viết phân tích các nội dung thể hiện tính Đảng trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật và đề xuất một số giải pháp đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Phát huy tính Đảng trong xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới
Phát huy tính Đảng trong xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

1. Nội dung tính Đảng trong xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật

Một là, Đảng đề ra cương lĩnh, nghị quyết, chỉ thị, kết luận hoạch định chiến lược, chính sách và những mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng pháp luật, qua đó, định hướng mục tiêu, yêu cầu, nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật.

Đây là phương thức lãnh đạo hết sức quan trọng, thể hiện rõ nhất vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Trong công tác xây dựng pháp luật, Đảng đề ra quan điểm, đường lối làm cơ sở, định hướng cho các cơ quan nhà nước tiến hành hoạt động lập pháp, lập quy, bảo đảm công tác xây dựng pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong từng giai đoạn.

Hai là, Đảng cho ý kiến về mặt nguyên tắc, quan điểm, định hướng lớn đối với các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng, nhất là Hiến pháp và các đạo luật.

Yêu cầu đặt ra đối với phương thức lãnh đạo này là các tổ chức đảng, như: Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự Đảng Chính phủ không trực tiếp tham gia các công đoạn cụ thể của quá trình soạn thảo, thẩm định, thẩm tra văn bản quy phạm pháp luật hay các vấn đề liên quan đến kỹ thuật xây dựng pháp luật mà chỉ cho ý kiến định hướng chung về những vấn đề đó. Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng cần được tiến hành “theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; lãnh đạo thông qua tổ chức đảng chứ không chỉ thông qua đảng viên; lãnh đạo bằng quyết định của tập thể và bằng cách theo dõi, cho ý kiến chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện, khuyến khích những mặt tốt, uốn nắn những lệch lạc nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò và hiệu lực của Nhà nước, chứ không điều hành thay Nhà nước”1

Ba là, Đảng lãnh đạo công tác tổ chức lấy ý kiến Nhân dân về dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật.

Để văn bản quy phạm pháp luật thực sự dân chủ, khoa học, phù hợp thực tế khách quan, khả thi đòi hỏi quá trình thể chế hoá chủ trương của Đảng phải tổ chức tham vấn công chúng, đặc biệt là tiếp thu ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, ý kiến của đối tượng điều chỉnh và chịu sự tác động của văn bản. Các tổ chức Đảng như Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ phải lãnh đạo công tác tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, tham vấn công chúng, bảo đảm sao cho hoạt động này được triển khai một cách thực chất, dân chủ, tiết kiệm, hiệu quả.

Bốn là, Đảng kiểm tra việc thể chế hóa, thực hiện đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật của Nhà nước. 

Thông qua hệ thống các biện pháp và phương tiện khác nhau, Đảng phát hiện những sai sót, bất hợp lý trong các chính sách của mình, khắc phục những sai sót đó, đồng thời phát hiện những hạn chế, bất cập trong công tác xây dựng pháp luật. Công tác kiểm tra của Đảng đối với công tác thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng đòi hỏi phải được tiến hành theo những nguyên tắc của tổ chức Đảng, đồng thời phải tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và trên cơ sở tôn trọng quyền hạn và chức năng quản lý của Nhà nước.

Năm là, Đảng lãnh đạo công tác xây dựng tổ chức và đội ngũ cán bộ cho công tác xây dựng pháp luật.

Lãnh đạo công tác cán bộ cũng là một hình thức lãnh đạo quan trọng của Đảng, có tính chất quyết định để nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật. Công tác thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng do nhiều tổ chức, cơ quan, cá nhân tiến hành theo một quy trình chặt chẽ được pháp luật quy định. Sản phẩm của thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là sự kết tinh trí tuệ của nhiều tổ chức, cơ quan, cá nhân. Vì thế lãnh đạo công tác cán bộ, phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng những người có đủ tài, đủ đức, đủ năng lực chuyên môn để tham gia quá trình thể chế hóa xây dựng pháp luật là một nội dung quan trọng của sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng pháp luật.

Sáu là, Đảng lãnh đạo công tác tổ chức thi hành pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống. 

Tổ chức thi hành pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức đưa pháp luật thực định vào đời sống nhà nước và đời sống xã hội làm cho pháp luật sau khi ban hành có hiệu lực thực thi trong thực tế. Nội dung của tổ chức thi hành pháp luật bao gồm một chuỗi các hoạt động kế tiếp nhau, quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, hoạt động trước là tiền đề, là điều kiện quyết định cho hoạt động sau, trong đó bao gồm: (1) Ban hành văn bản hướng dẫn thi hành, xây dựng chương trình và kế hoạch thi hành văn bản quy phạm pháp luật; (2) Phổ biến chương trình, kế hoạch thi hành văn bản quy phạm pháp luật và tuyên truyền, phổ biến nội dung và tinh thần cơ bản của văn bản quy phạm pháp luật đến các đối tượng trực tiếp phải thi hành; (3) Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời nhắc nhở, uốn nắn; (4) Sơ kết, tổng kết việc tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật đó; (5) Xây dựng lực lượng và cơ sở hạ tầng để bảo đảm cho việc tổ chức thi hành pháp luật.

Xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật là hai mặt không tách rời của pháp luật. Không thể có mặt này mà thiếu mặt kia và ngược lại. Không làm tốt các hoạt động tổ chức thi hành pháp luật thì pháp luật chỉ tồn tại trên giấy, hay chỉ là những “lời nói rung động trong không khí”2. Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tổ chức thi hành pháp luật cần được chú trọng sao cho tương xứng và đồng bộ với lãnh đạo xây dựng pháp luật. Có như vậy, sự lãnh đạo của Đảng mới thực sự trở thành sức mạnh vật chất, sức mạnh có tính bắt buộc chung đối với toàn xã hội.

2. Giải pháp phát huy tính Đảng trong công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật 

Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ ra các định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, trong đó nhấn mạnh: “cải tiến phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng, bảo đảm Đảng là người cầm lái vĩ đại, đưa dân tộc ta vượt lên đã trở thành vấn đề cấp thiết, vấn đề sống còn3.  

Để nâng cao chất lượng hệ thống pháp luật, tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, việc phát huy tính Đảng trong công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Triển khai thực hiện định hướng nêu trên, trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:

Thứ nhất, đổi mới phương thức ban hành nghị quyết của Đảng làm cơ sở, định hướng cho hoạt động xây dựng pháp luật.

Phương thức lãnh đạo của Đảng thông qua đề ra chủ trương, đường lối cho hoạt động xây dựng pháp luật có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, mang tính quyết định đối với chất lượng của hệ thống pháp luật.Quan điểm, đường lối của Đảng xác định những mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ trọng yếu của đất nước trong mỗi thời kỳ mà công tác xây dựng pháp luật cần phải tập trung quán triệt, bám sát để thể chế hóa kịp thời, toàn diện, đầy đủ và chính xác nhằm phúc đáp các yêu cầu và hoàn thành mục tiêu đó. Về mối quan hệ hữu cơ giữa đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước: nếu chủ trương, đường lối của Đảng càng hoàn thiện, càng minh bạch, phù hợp với thực tiễn khách quan của đất nước thì việc thể chế hóa thành pháp luật là đúng đắn, càng có khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, do vậy, sự lãnh đạo của Đảng càng được tăng cường4. Ngược lại, nếu không có chủ trương, quan điểm, đường lối có tính định hướng, chiến lược đúng đắn, sáng suốt thì việc chuẩn bị các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật sẽ gặp khó khăn trong việc xác định những nội dung, nguyên tắc cơ bản, đối tượng và cách thức, phạm vi điều chỉnh của văn bản.

Thực tế cho thấy, nội dung và cách thức ra nghị quyết của Đảng trong những năm qua đã có sự đổi mới nhưng chưa tương xứng với mong mỏi của các đại biểu Quốc hội5. Số lượng nghị quyết được ban hành khá nhiều và mỗi nghị quyết lại chứa đựng quan điểm, định hướng của Đảng về nhiều vấn đề lớn, khó, gây khá nhiều áp lực cho hoạt động lập pháp của Quốc hội và lập quy của Chính phủ. Bên cạnh đó, “về nội dung, có một số nghị quyết quá cụ thể, quá chi tiết rất khó thể chế hóa thành luật, nhiều trường hợp muốn tìm phương thức điều chỉnh mới phù hợp hơn nhưng lại “đụng trần” nghị quyết”6. Từ đó dẫn đến tình trạng Quốc hội, Chính phủ không kịp thời, thậm chí không đủ sức để thể chế hóa những quan điểm, chủ trương của Đảng thành văn bản quy phạm pháp luật có chất lượng tốt.

Chính vì vậy, cần phải: “Đổi mới mạnh mẽ việc ban hành và quán triệt, thực hiện Nghị quyết của Đảng”7. Để nâng cao chất lượng ban hành nghị quyết của Đảng làm cơ sở cho việc Quốc hội, Chính phủ thể chế hóa thành pháp luật, cần tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng. Ban hành nghị quyết khi thật sự cần thiết, hợp lý, thiết thực, ngắn gọn, khả thi”8.

Về nội dung nghị quyết của Đảng, cần bảo đảm xác định rõ mục tiêu tổng quát, rõ đường lối, định hướng chính trị trong một thời kỳ nhất định, bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán, tính khoa học, tính phù hợp và khả thi của các nhiệm vụ mà nghị quyết nêu ra. Chỉ ban hành Nghị quyết của Đảng khi thật sự cần thiết để định hướng cho việc xây dựng pháp luật. “Nghị quyết của các cấp ủy, tổ chức Đảng phải ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ tiếp thu, dễ thực hiện, xác định đúng, trúng yêu cầu, nhiệm vụ, con đường, cách thức phát triển của đất nước, của dân tộc, của từng địa phương, từng bộ, ngành; phải có tầm nhìn, tính khoa học, tính thực tiễn, thiết thực và tính khả thi; tạo sự phấn khởi, tin tưởng, kỳ vọng và động lực thôi thúc hành động của cán bộ, đảng viên, các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp và nhân dân thực hiện Nghị quyết của Đảng”9. Các nghị quyết của Đảng không nên quá chi tiết, quá cụ thể mà cần tạo “dư địa”, “không gian” cho Quốc hội, Chính phủ phát huy năng lực sáng tạo, chủ động của mình trong việc thể chế hóa, cụ thể hóa quan điểm, chủ trương của Đảng thành pháp luật.

Thứ hai, đổi mới cách thức cho ý kiến của Bộ Chính trị đối với các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết trước khi trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Việc cho ý kiến của Bộ Chính trị là phương thức lãnh đạo hết sức quan trọng của Đảng đối với hoạt động xây dựng pháp luật nhằm bảo đảm mỗi dự thảo văn bản quy phạm pháp luật phải theo đúng quan điểm, đường lối của Đảng và thể chế hóa kịp thời, toàn diện, đầy đủ những quan điểm, đường lối đó. Tuy nhiên, để phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của Quốc hội với vai trò là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, việc cho ý kiến của Bộ Chính trị cần tập trung vào những vấn đề mang tính nguyên tắc, đường lối, quan điểm có tính định hướng lớn, không nên đi vào những vấn đề cụ thể của dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết; tránh trường hợp Đảng bao biện, làm hộ, làm thay cơ quan nhà nước; đồng thời, tránh sự ỷ lại, không dám chịu trách nhiệm từ phía các cơ quan nhà nước. 

Cần giao cho Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng của Chính phủ chịu trách nhiệm bảo đảm dự thảo văn bản quy phạm pháp luật phải thể chế hóa đúng, đủ các định hướng, chủ trương của Đảng, bảo đảm tăng cường tính Đảng trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam như chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm: “Đột phá mạnh mẽ về thể chế phát triển, tháo gỡ điểm nghẽ, rào cản”10; “pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần phải liên tục được hoàn thiện để thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, phát huy dân chủ, vì con người, công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người”11.

Quy trình cho ý kiến của Bộ Chính trị đối với dự thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết cần đổi mới theo cách cho ý kiến hai lần. Lần thứ nhất là khi dự án được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội; Lần thứ hai khi dự án đã được Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội thẩm tra, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến trước khi trình ra Quốc hội. Trong đó, lần thứ nhất có ý nghĩa hết sức quan trọng, có vai trò “hoạch định chính sách” của văn bản. Cần đặc biệt đề cao tính khoa học của quy trình hoạch định chính sách và làm rõ các vấn đề: mục đích của văn bản, định hướng nội dung cốt lõi của văn bản, hình thức văn bản, các điều kiện bảo đảm cơ bản để thực thi văn bản. Đây chính là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền xây dựng pháp luật, chuyển hóa, “dịch” chính sách thành các điều khoản, quy phạm cụ thể. Lần thứ hai, Bộ Chính trị xem xét dự án văn bản đã thể chế hóa đúng tinh thần của chính sách đã được đề ra ở lần thứ nhất hay chưa. Với việc đổi mới quy trình này sẽ bảo đảm để Bộ Chính trị có điều kiện xem xét phản hồi ý kiến, thông tin đầy đủ từ nhân dân, các chuyên gia, các cơ quan, tổ chức hữu quan và của các cơ quan xây dựng pháp luật về các nội dung của dự thảo, từ đó, góp phần nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ ba, đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng tham mưu việc ban hành nghị quyết và các văn bản khác của Đảng.

Các ban chuyên môn của Đảng đã được phân công tham mưu về lĩnh vực phụ trách có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với các cơ quan xây dựng pháp luật, trước hết là với Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng của Chính phủ để xem xét và góp ý kiến trước khi trình Bộ Chính trị, tập trung vào những vấn đề thuộc quan điểm, đường lối, chính sách ở tầm vĩ mô. Qua đó, các ban Đảng sẽ có được những thông tin cần thiết để tham mưu cho Bộ Chính trị trong việc cho ý kiến. Đồng thời, đây là kênh quan trọng giúp cho Bộ Chính trị có thêm thông tin, dữ liệu để thảo luận và cho ý kiến.

 Đặc biệt, cần tăng cường chất lượng thẩm định của các ban của Đảng đối với các dự án trình xin ý kiến Bộ Chính trị. Kết quả thẩm định phải sắc bén, toàn diện, nhất là về nội dung phản biện chính sách; cần đi sâu đánh giá chất lượng, việc thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng; tính khả thi của dự án. Nếu hồ sơ và dự thảo các văn bản xin ý kiến chưa đáp ứng được yêu cầu (ví dụ: dự thảo văn bản chưa đủ căn cứ chính trị, pháp lý; hồ sơ sơ sài, chưa đủ thông tin, dữ liệu để Bộ Chính trị, Ban Bí thư cho ý kiến…) thì ban đó có thể trả hồ sơ cho cơ quan trình xin ý kiến, yêu cầu chuẩn bị lại hoặc kiến nghị những giải pháp để xử lý, hoàn thiện hồ sơ, dự thảo. 

Cần đề cao vai trò, trách nhiệm của các tổ đảng ở Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội; cấp ủy Đảng ở các cơ quan, tổ chức hữu quan trong công tác xây dựng pháp luật, bảo đảm quá trình hoạch định, xây dựng, phân tích chính sách, phản biện chính sách được khách quan, toàn diện, có căn cứ khoa học và thực tiễn theo đúng đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng, chống lợi ích ngành, lợi ích nhóm trong xây dựng pháp luật. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng của các dự án văn bản quy phạm pháp luật trước khi trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, thông qua.

Thứ tư, đẩy mạnh kiểm soát quyền lựcphòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật.

Thực tế cho thấy, có một số biểu hiện lợi ích nhóm, lợi ích ngành, lợi ích cục bộ địa phương trong công tác hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, nhất là pháp luật liên quan đến đầu tư, quy hoạch, xây dựng, đất đai, quyền con người, quyền công dân… Để khắc phục tình trạng nêu trên, Bộ Chính trị cần chỉ đạo Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ tăng cường năng lực, trách nhiệm, hiệu quả của công tác thẩm tra, thẩm định, phản biện, phân tích chính sách, pháp luật; lấy ý kiến rộng rãi đối tượng chịu sự tác động, điều chỉnh của văn bản; công khai, minh bạch quá trình xây dựng pháp luật. Bảo đảm thực hiện nghiêm các nguyên tắc kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật, nhất là nguyên tắc “Kết hợp đồng bộ, chặt chẽ các cơ chế, biện pháp kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, cục bộ trong công tác xây dựng pháp luật; chủ động phòng ngừa là chính; kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh các hành vi lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật; bảo vệ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”12.

Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ, các cấp ủy Đảng phải tích cực, chủ động hơn nữa trong việc kiểm tra quá trình thể chế hóa đường lối, chính sách, chủ trương, quan điểm của Đảng, coi trọng kiểm tra, giám sát, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, quy định, chỉ thị, kết luận của Đảng, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả”13Tùy vai trò, tính chất quan trọng, nội dung của vấn đề có thể giao cho hệ thống Ủy ban Kiểm tra của Đảng, các Ban của Đảng hoặc giao cho Ban cán sự Đảng ở các bộ, ban, ngành. Đối với những vấn đề quan trọng trongVăn kiện Đại hội, Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương có thể giao cho Ban Bí thư, hoặc mở hội nghị chuyên đề của Bộ Chính trị, Ban Bí thư kiểm điểm, đánh giá xem chủ trương, đường lối trong văn kiện đại hội, các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương đã được thể chế hóa như thế nào.

Thứ năm, đổi mới nhận thức, bảo đảm thực sự chú trọng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tổ chức thi hành pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống.

Những hạn chế trong việc tổ chức thi hành pháp luật của Nhà nước nói chung, của các cơ quan có thẩm quyền nói riêng chưa tương xứng với nhận thức về hoạt động lập pháp. Đối với hoạt động lập pháp thì vừa được Đảng chỉ đạo bằng chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật (Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị) với nhiều lần sơ kết, tổng kết đánh giá việc thực hiện Nghị quyết…. Luật sau khi ban hành, có hiệu lực với các văn bản cụ thể hóa chưa đủ để tự nó đi vào cuộc sống mà phải bằng công tác tổ chức thi hành pháp luật một cách quyết liệt không kém so với hoạt động lập pháp. Mặc dù coi trọng lập pháp nhưng lại coi nhẹ tổ chức thi hành pháp luật. Chính vì thế hai hoạt động này chưa có tác động tương hỗ lẫn nhau một cách chặt chẽ góp phần nâng cao chất lượng hoạt động cho nhau14.

Trong thời gian tới, các cấp ủy Đảng cần chú trọng lãnh đạo chặt chẽ và thường xuyên hơn đối với các hoạt động tổ chức thi hành pháp luật. Đặc biệt, Bộ Chính trị lãnh đạo việc sớm ban hành Luật Tổ chức thi hành pháp luật để xác định rõ nội dung, quy trình, trách nhiệm của các chủ thể thực hiện công tác này. Đồng thời, tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, theo dõi, kiểm tra và xây dựng lực lượng, cơ sở vật chất để đảm bảo cho việc tổ chức thi hành pháp luật. 

Thứ sáu, nâng cao chất lượng sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng tổ chức và đội ngũ cán bộ cho công tác xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật.

Đây là một nội dung lãnh đạo quan trọng để nâng cao chất lượng của hoạt động xây dựng pháp luật. Sản phẩm của hoạt động xây dựng pháp luật là sự kết tinh trí tuệ của nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân. Do vậy, sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tổ chức và nhân sự là một nội dung hết sức quan trọng. 

Đảng luôn tập trung vào việc phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng những người có đủ tài, đức, đủ năng lực tổ chức và biết cách thể chế hóa thành pháp luật và tổ chức thực hiện khá hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng đã đề ra. Đặc biệt, đối với Quốc hội, cơ quan thực hiện quyền lập pháp, thì yêu cầu về sự lãnh đạo chặt chẽ, toàn diện của Đảng đối với tổ chức bộ máy, nhân sự càng có ý nghĩa quan trọng. 

Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhận định: Thực tế cho thấy, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng tạo khả năng xây dựng một cơ cấu tổ chức thống nhất của Quốc hội và là tiền đề để bảo đảm cho Quốc hội phát huy được vai trò của mình. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội chẳng những nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ chế thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội mà còn bảo đảm thực hiện tốt các mối quan hệ giữa Quốc hội với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước”15. Vì vậy, Cố Tổng Bí thư chỉ đạo: tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định để Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, hoàn thành tốt trọng trách mà Nhân dân ủy thác16.

Việc lãnh đạo đối với công tác tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, lựa chọn và giới thiệu đảng viên có trình độ, năng lực và phẩm chất tốt là ứng cử viên đại biểu Quốc hội, nắm giữ các vị trí chủ chốt trong Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các cơ quan xây dựng pháp luật khác cũng là kênh để Đảng nắm bắt được hoạt động xây dựng pháp luật và chuyển tải những đường lối, chủ trương của mình đến các cơ quan xây dựng pháp luật.

Thời gian tới, Đảng cần quan tâm và chủ động lãnh đạo sâu sát hơn nữa đối với công tác tổ chức bộ máy, bố trí cán bộ, đảng viên có đủ năng lực, phẩm chất, chuyên môn nghiệp vụ làm việc ở cơ quan lập pháp, lập quy; sớm tiến hànhnghiên cứu tổ chức cơ quan soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật tập trung, bảo đảm tính chuyên nghiệp, khoa học và sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật”17Bên cạnh đó, cần tiếp tục lãnh đạo công tác đào tạo, rèn luyện qua thực tế đối với cán bộ, đảng viên, tuyển chọn những người có đức, có tài vào làm công tác pháp luật. Thông qua đó hình thành tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, chuyên gia giỏi phục vụ hoạt động xây dựng và thực thi pháp luật đáp ứng đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.

Thứ bảy, các cấp ủy Đảng và đảng viên thực sự gương mẫu tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật.

Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, tấm gương thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong lãnh đạo và chỉ đạo các công việc nhà nước của các cấp ủy Đảng và của các đảng viên đứng đầu các cấp ủy Đảng có vai trò đặc biệt quan trọng, vì thế các tổ chức Đảng và người đứng đầu các tổ chức Đảng phải coi trọng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để không những bản thân mình tôn trọng và tuân thủ Hiến pháp, pháp luật mà việc lãnh đạo và chỉ đạo các công việc nhà nước phải phù hợp với pháp luật và đúng với các quy định của pháp luật. Điều này đòi hỏi yêu cầu hàng đầu của Đảng cầm quyền trong việc thực hiện và bảo đảm thực hiện nguyên tắc pháp quyền trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay18.

3. Kết luận

Phát huy tính Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng đối với Nhà nước nói chung và đối với công tác xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật nói riêng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật, vừa làm tăng sức mạnh của Đảng cầm quyền, đồng thời, làm cho Nhà nước mạnh lên, tính dân chủ và pháp quyền trong hoạt động của bộ máy nhà nước và đời sống xã hội được tăng cường và phát huy, góp phần đẩy nhanh quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đưa đất nước vững bước vươn mình vào kỷ nguyên mới.

Chú thích:
1. Đỗ Mười (1995). Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới vì chủ nghĩa xã hội. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 58. 
2, 4, 5, 6, 14, 18. Trần Ngọc Đường (2020). Bàn về nguyên tắc pháp quyền trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. H. NXB Tư pháp, tr. 231, 257, 253, 253, 242, 264.
3, 7. Tổng Bí thư Tô Lâm trao đổi chuyên đề Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. https://lyluanchinhtri.vn/tong-bi-thu-to-lam-trao-doi-chuyen-de-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc-viet-nam-6567.html, ngày 08/01/2025.
8, 13. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xiii/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xii-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-cua-3734.
9, 10. Tổng Bí thư Tô Lâm trao đổi chuyên đề Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. https://lyluanchinhtri.vn/tong-bi-thu-to-lam-trao-doi-chuyen-de-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc-viet-nam-6567.html, ngày 8/01/2025.
11. Phát huy tính Đảng trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. https://special.nhandan.vn/phat-huy-tinh-Dang-trong-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-o-Vietnam/index.html, ngày 8/01/2025.
12. Bộ Chính trị (2024). Quy định số 178-QĐ/TW ngày 27/6/2024 về kiểm soát quyền, lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật.
15, 16. Nguyễn Phú Trọng (2024). Quốc hội trong tiến trình đổi mới đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 426, 425.
17. Đổi mới mạnh mẽ công tác xây dựng và thi hành pháp luật để đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới. https://dangcongsan.vn/thoi-su/doi-moi-manh-me-cong-tac-xay-dung-va-thi-hanh-phap-luat-de-dat-nuoc-vung-buoc-tien-vao-ky-nguyen-moi-682766.html, ngày 10/01/2025.

PGS.TS. Tào Thị Quyên
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

1. Nội dung tính Đảng trong xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật Một là, Đảng đề ra cương lĩnh, nghị quyết, chỉ thị, kết luận hoạch định chiến lược, chính sách và những mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng pháp luật, qua đó, định hướng mục tiêu, yêu cầu, nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật. Đây là phương thức lãnh đạo hết sức quan trọng, thể hiện rõ nhất vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Trong công tác xây dựng pháp luật, Đảng đề ra quan điểm, đường lối làm cơ sở, định hướng cho các cơ quan nhà nước tiến hành hoạt động lập pháp, lập quy, bảo đảm công tác xây dựng pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong từng giai đoạn. Hai là, Đảng ch

Tin khác cùng chủ đề

Sức mạnh trường tồn của Đảng là niềm tin của Nhân dân
Những thành tựu lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam 95 năm qua
Mùa xuân khơi dậy khát vọng phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới
Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng
Quan điểm phát triển văn hóa, con người trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Bảo đảm tính đảng và tính khoa học của khoa học lịch sử và khoa học chính trị trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch

Gửi bình luận của bạn