Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Trải qua 15 năm phấn đấu hy sinh, xây dựng tổ chức, tập hợp lực lượng, tháng 8-1945, Đảng đã lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi cả nước. Thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong Cách mạng Tháng Tám không phải là ngẫu nhiên hay tình cờ, mà là kết quả tất yếu của sự kết hợp các yếu tố chủ quan và khách quan trong bối cảnh của Việt Nam và quốc tế lúc đó. Đảng đã vận dụng, hiện thực hóa thành công lý luận của Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.

Tính tất yếu thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam
Tính tất yếu thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam

1. Do ý nghĩa và tầm ảnh hưởng to lớn của Cách mạng Tháng Tám 1945 ở Việt Nam mà sự kiện này đã sớm thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước. Hầu hết các công trình nghiên cứu ở nước ngoài, với những nguồn tư liệu phong phú đã góp phần cung cấp thêm cho người đọc có một một bức tranh đầy đủ hơn về một sự kiện lớn, bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử nhất trong lịch sử đương đại Việt Nam. Vì những nguyên nhân khác nhau, trong đó có ảnh hưởng của thời kỳ đối đầu căng thẳng giữa hai hệ thống tư tưởng, nên một số công trình nghiên cứu đã đưa ra những nhận xét không đúng với thực tế lịch sử đã diễn ra của Cách mạng Tháng Tám, trong đó có nhận xét cho rằng: thành công của Cách mạng tháng Tám là do “ngẫu nhiên” vì tồn tại một “khoảng trống quyền lực” vào thời điểm nổ ra sự kiện.

Trong bài viết “Diễn giải lại về Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam”, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu châu Á, số 4 (tháng 8-1971), tác giả Huỳnh Kim Khánh cho biết những người nói xấu Đảng đã nhìn thành công của Việt Minh trong việc giành chính quyền trong tháng Tám năm 1945 như là một “kết quả của những hoàn cảnh ngẫu nhiên”. Họ cho rằng có một “khoảng trống quyền lực” (power vacuum) ở Việt Nam sau khi Nhật Bản đầu hàng. Người Nhật đã phá hủy chế độ thuộc địa của Pháp vào tháng Ba. Khi phải đầu hàng Đồng minh, quân đội Nhật hoang mang và mất tinh thần. Tận dụng cơ hội bất ngờ này, Việt Minh đã “dễ dàng chiếm chính quyền trước ánh mắt thờ ơ hay thậm chí đồng lõa của người Nhật. Sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng đối với Việt Minh, theo lập luận này, là bởi Việt Minh đã thành công trong việc thổi phồng những liên hệ ít ỏi của họ đối với lực lượng Đồng Minh”1.

Năm 1991, công trình của nhà sử học Na Uy Stein Tønnesson Cách mạng Việt Nam 1945, Roosevelt, Hồ Chí Minh và de Gaulle trong một thế giới có chiến tranh2 giới thiệu hai chuỗi quan hệ nhân quả để hiểu được sự sụp đổ của chế độ thực dân Pháp và việc nó được thay thế bởi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm 1945. Chuỗi thứ nhất là những yếu tố bên ngoài liên quan đến Việt Nam với kế hoạch ủy trị cho Đông Dương của Roosevel, những cân nhắc chiến lược của Đồng minh đối với khu vực Thái Bình Dương và ảnh hưởng của nó tới cuộc đảo chính của Nhật ngày 9-3, những yếu kém của chính phủ Trần Trọng Kim đưa đến “khoảng trống quyền lực” cho Việt Minh. Chuỗi thứ hai liên quan đến các yếu tố bên trong, lý giải tại sao Việt Minh lại có thể tận dụng được “khoảng trống quyền lực” đó. Công trình tập trung chủ yếu vào chuỗi thứ nhất.

Vậy có phải thành công của Cách mạng Tháng Tám là kết quả của những hoàn cảnh ngẫu nhiên hay không? Có khoảng trống quyền lực trong thời gian diễn ra Cách mạng Tháng Tám không?

Từ khi bị thực dân Pháp đô hộ, mọi người dân Việt Nam, trừ những kẻ cam tâm làm tay sai cho thực dân Pháp, dù thuộc giai cấp, tầng lớp nào, cũng đều chung một mong muốn là đánh đuổi được giặc Pháp, giành độc lập cho đất nước. Các phong trào giải phóng dân tộc (GPDT) theo tư tưởng phong kiến hay tư sản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đều bị thực dân Pháp đàn áp. Trong quá trình hoạt động cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy chỉ có Lênin và Quốc tế Cộng sản mới có thể giúp các dân tộc thuộc địa được giải phóng. Chánh cương vắn tắt của Đảng - văn kiện quan trọng của Hội nghị thành lập Đảng đã xác định “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến” và “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”3 là hai nhiệm vụ hàng đầu về phương diện chính trị. Luận cương chính trị tháng 10-1930 của Đảng cũng đặt nhiệm vụ “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, phong kiến và địa chủ” lên hàng đầu trong các nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền4. Từ khi ra đời đến khi giành được chính quyền, không kể thời kỳ Mặt trận bình dân, Đảng phải hoạt động bí mật, bất hợp pháp, các đảng viên luôn bị bộ máy chính quyền thực dân săn lùng, tù đày, giết hại, đến mức từ tháng 4-1931 đến tháng 3-1935 Đảng không có cơ quan lãnh đạo cấp Trung ương. Chặng đường 15 năm phấn đấu hy sinh đã khẳng định sức sống của Đảng và để lại cho Đảng những bài học có giá trị cho các giai đoạn lịch sử tiếp theo, trong đó có các bài học về công tác xây dựng đảng, công tác mặt trận, công tác vận động quần chúng.

Yếu tố chủ quan chính ở đây là khát vọng GPDT của mọi giai cấp, tầng lớp nhân dân trong nước; là chủ trương, đường lối của Đảng trong từng giai đoạn cách mạng, đặc biệt là khả năng dự báo tình hình. Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ, ngày 29-9-1939, Trung ương Đảng đã gửi thông cáo cho các cấp bộ đảng, nhận định “hiện nay tình hình đã thay đổi nhiều. Hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng, hoàn toàn vấn đề ấy mau hay chậm là tùy theo tình hình thế giới và năng lực của các đồng chí”5. Tháng 9-1940, phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, Pháp nhanh chóng đầu hàng, chấp nhận cùng với Nhật chia sẻ lợi ích để chờ cơ hội. Nhân dân Đông Dương rơi vào cảnh “một cổ hai tròng”. Các hội nghị Trung ương tháng 11-1939, tháng 11-1940 xác định thay đổi chiến lược, đặt nhiệm vụ GPDT lên hàng đầu. Đến Hội nghị Trung ương tháng 5-1941 chủ trương thay đổi chiến lược, đặt nhiệm vụ GPDT lên hàng đầu được hoàn chỉnh với việc thành lập Mặt trận Việt Minh, xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.

Từ khi Mặt trận Việt Minh được thành lập (19-5-1941) cho đến trước Cách mạng Tháng Tám, các công việc to lớn đã được thực hiện trên quy mô toàn quốc với một đội ngũ đảng viên chỉ tính hàng nghìn người và sự ủng hộ, tham gia của mọi tầng lớp nhân dân6. Lực lượng chính trị đông đảo gồm các đoàn thể cứu quốc thuộc Mặt trận Việt Minh được hình thành, nhanh chóng phát triển lên hàng triệu người trên khắp cả nước. Từ cuối năm 1941, ở Cao Bằng đã xuất hiện các châu, tổng, xã mà ở đó toàn dân tham gia Việt Minh (gọi là “châu hoàn toàn”, “tổng hoàn toàn”, “xã hoàn toàn”). Trên thực tế, ở các địa phương này, chính quyền thực dân phong kiến chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Phong trào Việt Minh lan tỏa nhanh chóng từ các tỉnh miền núi, đến đồng bằng ở cả ba miền Bắc-Trung-Nam. Lực lượng vũ trang được xây dựng ở cấp cơ sở với các hình thức tự vệ, tự vệ chiến đấu, tiểu tổ du kích, đội du kích. Các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (8-1940), khởi nghĩa Nam Kỳ (11-1940) và binh biến tại đồn chợ Rạng và đồn Đô Lương (1-1941) là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc khi thời cơ đến, đồng thời gợi mở cho Đảng về những vấn để của khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Đội du kích Bắc Sơn được phát triển thành đội Cứu quốc quân. Ngày 22-12-1944, đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, đến tháng 5-1945 hợp nhất với các đội Cứu quốc quân thành Việt Nam Giải phóng quân. Các căn cứ địa, chiến khu, an toàn khu được thành lập để từ đó phong trào tiếp tục được xây dựng và lan tỏa.

Để động viên tầng lớp trí thức, các văn nghệ sĩ tham gia phong trào đấu tranh GPDT, chấn hưng đất nước, tháng 2-1943, Ban Thường vụ Trung ương đã thông qua “Đề cương văn hóa Việt Nam” do Tổng Bí thư Trường-Chinh khởi thảo. Đề cương chỉ rõ “Cách mạng văn hóa ở Việt Nam phải dựa vào cách mạng dân tộc giải phóng mới có điều kiện phát triển”. Ba nguyên tắc vận động cuộc vận động văn hóa nước Việt Nam trong giai đoạn này là “dân tộc hóa”, “đại chúng hóa” và “khoa học hóa”. Văn hóa mới Việt Nam do Đảng lãnh đạo “là một thứ văn hóa có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung”7. Đường lối về văn hóa của Đảng đã thôi thúc các trí thức, văn nghệ sĩ tích cực tham gia vào các Hội Văn hóa Cứu quốc của Việt Minh, hướng các hoạt động văn hóa vào việc khích lệ tinh thần dân tộc, góp phần tăng cường ảnh hưởng của phong trào cách mạng GPDT, đặc biệt là ở các thành phố.

Tháng 5-1944, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa, yêu cầu các cấp bộ Việt Minh đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang, tăng cường trang bị vũ khí. Việt Minh tăng cường công tác đối ngoại, thiết lập quan hệ với các lực lượng chống phát xít ở Trung Quốc, Thái Lan; một số đảng viên cộng sản, đảng xã hội quốc tịch Đức, Áo, Pháp... đang làm việc trong quân đội Pháp và trong giới công chức Pháp ở Việt Nam. Liên minh với phái Pháp De Gaulle chống phát xít không thành do phái Pháp De Gaulle không thừa nhận quyền dân tộc độc lập của Việt Nam. Việt Minh coi trọng vai trò của nước Mỹ qua sự hợp tác với Cơ quan tình báo chiến lược Mỹ (OSS): cứu phi công Mỹ, tuyên truyền, kêu gọi nhân dân ủng hộ Anh, Mỹ; cung cấp thông tin về quân đội Nhật ở Đông Dương cho nhóm tình báo Con Nai (Deer) của OSS. Nhóm Con Nai đã hỗ trợ Việt Minh một số thuốc men, vũ khí, điện đài, dành bốn tuần để huấn luyện cho khoảng hai trăm người được lựa chọn kỹ lưỡng để làm cán bộ lãnh đạo tương lai cho quân đội Việt Nam. Nhóm Con Nai còn “đi theo cùng bộ đội Việt Minh trên suốt chặng đường về Hà Nội nhưng chỉ với tư cách là quan sát viên”8.

Tối ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính “hất cẳng” Pháp. Trước đó, tháng 4-1944, trên báo Cờ Giải phóng, trong bài “Cái nhọt bọc sẽ phải vỡ mủ”, Đảng đã dự đoán mâu thuẫn Pháp-Nhật trong quá trình cộng trị tại Đông Dương ngày càng gay gắt và sẽ dẫn đến chỗ Nhật lật đổ Pháp.

Ngày 8-3-1945, ngay sau khi nhận được tin từ cơ sở cách mạng cho biết Toàn quyền Jean Decoux vào Sài Gòn; quân Nhật được lệnh cấm trại, chuẩn bị vũ khí, lương thực; quân Pháp được lệnh báo động, Tổng Bí thư Trường Chinh lập tức quyết định họp Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương9. Tối ngày 9-3, Hội nghị họp và ra Chỉ thị ngày 12-3-1945 “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Chỉ thị nhận định: “đế quốc Pháp mất quyền thống trị ở Đông Dương không phải là kẻ thù cụ thể trước mắt ta nữa”, “đế quốc Nhật là kẻ thù chính”. Khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật” được thay cho khẩu hiệu đánh đuổi Nhật-Pháp, yêu cầu các cấp bộ đảng phải cổ động quần chúng mạnh dạn lên mặt trận đấu tranh, tập dượt cho quần chúng mạnh dạn tiến lên tổng khởi nghĩa; phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa; sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa một khi đã đủ điều kiện10. Ngày 15-3, hàng vạn truyền đơn phản ánh nội dung tinh thần, chủ trương của Đảng do Việt Minh đứng tên hiệu triệu đã được rải ở nhiều tỉnh ở miền Bắc. Bằng nhiều con đường, Chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” đã nhanh chóng lan truyền đi khắp cả nước, là căn cứ để đảng bộ các địa phương lãnh đạo cao trào kháng Nhật, cứu nước. Với sự chuẩn bị về lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang và những hướng dẫn của Chỉ thị ngày 12-3-1945, phong trào GPDT do Đảng phát động đã phát triển mạnh mẽ thành các cuộc khởi nghĩa từng phần và giành thắng lợi ngay từ cuối tháng 3 và tháng 4-1945, khu giải phóng được và thành lập chính quyền cách mạng ở nhiều châu, xã thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc như Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn... Ở miền Trung, ngày 24-7-1945 nhân dân huyện Hoằng Hóa nổi dậy giành chính quyền thắng lợi.

Cũng từ Chỉ thị ngày 12-3-1945 của Đảng, Việt Minh các địa phương đã phát động phong trào “Phá kho thóc giải thoát nạn đói”. Hàng triệu quần chúng đã lôi cuốn vào một phong trào lúc đầu chỉ mang mục đích kinh tế, nhưng sau đó mau chóng được giác ngộ chính trị. Nhân dân được võ trang, các đội tự vệ thành lập mau lẹ ở những nơi chưa hề có phong trào, và những ủy ban giải phóng nảy nở ra ở nhiều tỉnh11. Archimedes L.A. Patti, chỉ huy lực lượng OSS viết: “Việt Minh đã nắm lấy vai trò lãnh đạo trong cuộc khủng hoảng ấy. Các đơn vị du kích của Việt Minh đã đánh vào những kho tàng ở nông thôn Trung Kỳ và Bắc Kỳ chiếm lấy lương thực, đặc biệt là thóc gạo, để phân phát cho những người lang thang”12. Nếu như chính phủ Trần Trọng Kim bất lực trong việc cứu đói cho dân, thì kết quả của phong trào phá kho thóc Nhật đã mang lại uy tín cho Mặt trận Việt Minh.

Trước khi phát xít Nhật chính thức đầu hàng Đồng minh vào ngày 15-8-1945, phong trào Việt Minh đã có “hàng chục triệu hội viên”13 với sự ủng hộ to lớn của các tầng lớp nhân dân trong nước, có lực lượng vũ trang đã kinh qua trận mạc, có Khu giải phóng gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, một số vùng phụ cận của Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái... và nhất là đã có một đường lối, kế hoạch rõ ràng, đang được thực hiện từng bước (khởi nghĩa từng phần). Đó là những yếu tổ chủ quan của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Các yếu tố khách quan trực tiếp vào thời điểm của Cách mạng Tháng Tám. Đến đầu năm 1945, quân Nhật bị bao vây, uy hiếp từ bốn phía, rơi vào tình thế bất lợi. Đông Dương trở thành địa bàn chiến lược quan trọng để quân đội Nhật kéo dài chiến tranh. Tại Hội nghị Tehran tháng 11-1943, Mỹ, được Liên Xô và Trung Hoa dân quốc ủng hộ, muốn thiết lập chế độ ủy trị ở Đông Dương. Nhưng Chính phủ Pháp tự do của De Gaulle lại không muốn trao trả độc lập cho Đông Dương. Từ sau khi Roosevelt qua đời (12-4-1945), Nước Pháp tự do vận động để được Mỹ đồng ý cho trở lại Đông Dương. Theo thỏa thuận tại Hội nghị Postdam tháng 7-1945, quân đội Tưởng Giới Thạch và quân đội Anh sẽ kéo vào Đông Dương để tiếp nhận sự đầu hàng của quân đội Nhật ở khu vực này, lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới để thực hiện. Trong khi đó, Pháp đẩy mạnh việc thành lập đạo quân viễn chinh và chuẩn bị mọi điều kiện để quay lại xâm lược Đông Dương. Những diễn biến của tình hình quốc tế trên đây luôn được Hồ Chí Minh và Đảng theo dõi sát sao vì liên quan đến việc xác định thời cơ để tiến hành tổng khởi nghĩa. Cách mạng GPDT của Việt Nam đứng trước nguy cơ phải đối phó với nhiều kẻ thù cùng lúc gồm quân Nhật vừa bị bại trận nhưng vẫn đang hỗ trợ chính quyền của Trần Trọng Kim kiểm soát Việt Nam; các đội quân nước ngoài được pháp lý quốc tế thừa nhận sắp tràn vào; các đảng phái người Việt lưu vong và trong nước đang chờ cơ hội để theo chân hoặc đón quân đội nước ngoài vào để tranh đoạt chính quyền.

Việc xác định thời cơ vì thế cũng không cứng nhắc mà được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình. Chỉ thị ngày 12-3-1945 xác định thời cơ tổng khởi nghĩa là “khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, không phải ta có thể phát động tổng khởi nghĩa ngay tức khắc. Phải đợi cho quân Đồng minh không những bám chắc mà còn tiến được trên đất nước ta. Đồng thời phải chờ quân Nhật kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng minh để phía sau tương đối sơ hở; lúc đó phát động tổng khởi nghĩa mới có lợi”14. Nhưng ngay sau khi biết tin Nhật đã xin đầu hàng, tối ngày 12-8, Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương đã họp quyết định lập tức phát động tổng khởi nghĩa trên toàn quốc. Đảng chủ trương tổng khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân Đồng minh vào. Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập và phát Lệnh khởi nghĩa (Quân lệnh số 1) ngày 13-8. Trong điều kiện bấy giờ, Lệnh Tổng khởi nghĩa không thể nhanh chóng truyền tới tất cả các địa phương. Nhưng vì tất cả các cấp bộ đảng và Việt Minh ở các địa phương đã nhận thấy những điều kiện khởi nghĩa đã chín muồi, nên đã chủ động, sáng tạo lãnh đạo quần chúng đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền.

Các sự kiện như Nhật đảo chính, các điều kiện chính trị xã hội của Việt Nam trong thời kỳ chuyển tiếp trong 5 tháng kể từ khi Nhật đảo chính Pháp đã “tạo nên bối cảnh của Cách mạng Tháng Tám”. Huỳnh Kim Khánh cho rằng “Trên thực tiễn, toàn bộ việc chuẩn bị khởi nghĩa của Việt Minh, về tổ chức và tuyên truyền, xảy ra trong năm tháng chuyển tiếp sau đảo chính của Nhật. Không giống như các đảng khác có thể mất cảnh giác trước cuộc đảo chính của Nhật Bản và không chắc chắn về đường lối chính trị của họ, Việt Minh đã có thể khẳng định tình hình một cách cẩn thận và, thực hiện một cách có phương pháp một kế hoạch nổi dậy”15. 

 

2. Nhìn tổng thể, Cách mạng Tháng Tám 1945 diễn ra khá thuận lợi, ít đổ máu. Sự thuận lợi đó chỉ có được khi những điều kiện chủ quan của cách mạng đã được chuẩn bị đầy đủ. Tuy đã đầu hàng nhưng quân đội Nhật ở Đông Dương vẫn còn nguyên vẹn. Nếu không có sách lược khéo léo thì quân Nhật cũng như bảo an binh sẽ phản ứng để tự vệ. Các nhà lãnh đạo khởi nghĩa đã sử dụng phương pháp đối thoại, thuyết phục các chỉ huy đơn vị quân đội Nhật. Tại Hà Nội, sau cuộc míttinh sáng ngày 19-8, quần chúng cách mạng chia nhau đi chiếm các vị trí trọng yếu. Trước sức mạnh của quần chúng và được thuyết phục, chính quyền tay sai đã phải nhanh chóng bàn giao công sở cho Việt Minh và quân Nhật không can thiệp. Nhưng ở Trại Bảo an binh, quân Nhật đã cho xe tăng bao vây và đòi tước vũ khí của quân cách mạng. Sau khi lãnh đạo Ủy ban khởi nghĩa gặp chỉ huy quân Nhật để đàm phán, thuyết phục, quân Nhật đã rút lui. Tối ngày 19-8, cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội kết thúc thắng lợi. Ở Hà Đông, hầu hết chính quyền tay sai ở đây nhanh chóng đầu hàng. Nhưng tại cuộc tiến công Trại Bảo an binh Thị xã Hà Đông ngày 20-8, địch đã kháng cự khiến cho lực lượng khởi nghĩa hy sinh 47 người, bị thương 30 người và khoảng 60-70 ngư pời bị bắt. Phải đến ngày 23-8, Trại Bảo an binh mới bị tước vũ khí16. Ở Thị xã Sơn Tây, lực lượng Đại Việt đã vũ trang gây sức ép để Tỉnh trưởng bàn giao chính quyền. Nhưng trước sức đấu tranh của lực lượng cách mạng, ngày 21-8, Tỉnh trưởng Sơn Tây phải giao chính quyền cho Việt Minh17. Dù quân Nhật và chính quyền Trần Trọng Kim bị hoang mang, nhưng không phải là họ đã mất khả năng chiến đấu. Một số đảng thân Nhật như Đại Việt còn có cả lực lượng vũ trang. Như vậy, dù gặp thuận lợi, nhưng cuộc giành chính quyền không hoàn toàn diễn ra trong điều kiện có “khoảng trống quyền lực”, mà có cả hy sinh xương máu của nhân dân và các chiến sĩ cách mạng. 

 

Khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội, ngày 19-8-1945



Khởi nghĩa giành chính quyền ở Gài Gòn, ngày 25-8-1945

 

Một sự nghiệp cách mạng vốn là khao khát của cả một dân tộc trong hơn tám thập kỷ, dưới sự lãnh đạo của một đảng có cương lĩnh, đường lối đúng ngay từ đầu, có sự chuẩn bị lâu dài, đầy đủ về tổ chức, lực lượng, phương pháp... và khi thời cơ đến, đã lãnh đạo toàn dân đoàn kết mà giành lấy và đã thắng lợi. Rõ ràng, kết quả của sự nghiệp đó dứt khoát không phải là ngẫu nhiên hay tình cờ, mà là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh lâu dài của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, là sự kết hợp các yếu tố chủ quan và khách quan trong bối cảnh của Việt Nam và quốc tế lúc bấy giờ. Đó là quá trình vận dụng, hiện thực hóa thành công lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng GPDT ở Việt Nam của Đảng Cộng sản Đông Dương.

  

Bài đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng (in), số 12/2020

1, 15. Khanh, Huynh Kim. “The Vietnamese August Revolution Reinterpreted.” The Journal of Asian Studies, vol. 30, no. 4, 1971, pp. 761-782, 761-782

2. Tonnesson, Stein, The Vietnamese Revolution of 1945. Roosevelt, Ho Chi Minh and de Gaulle in a World at War, Oslo, 1991

3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2002, T.2, tr. 2, 99

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, T.6, tr. 756

6. Số lượng đảng viên của Đảng tháng 2-1939 là 2.092, tháng 8-1945 là 1.032, thời điểm Tổng khởi nghĩa 1945 là 3.000, năm 1945 là khoảng 5.000 (Theo TS Trần Trọng Thơ trong cuốn sách: Xây dựng cơ quan lãnh đạo cấp Trung ương, xứ ủy của Đảng thời kỳ 1930-1945, Nxb CTQG, 2014, tr. 323-324)

7, 10, 13, 14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, T.7, tr. 317-318, 366-367, 417, 372

8. Archimedes L.A. Patti, Tại sao Việt Nam, Nxb Đà Nẵng, 2008, tr. 202, 250, 262

9. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Tập I (1930-1954), Quyển 1 (1930-1945), Nxb CTQG, H, 2018, tr. 626

11. Trường Chinh, Cách mạng tháng Tám (xuất bản lần thứ sáu), Nxb ST, H, 1960, tr. 21

12. Archimedes L.A. Patti, Why Việt Nam? Tại sao Việt Nam, Nxb Đà Nẵng, 2008, tr. 173

16, 17. Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội, Tập 1, 1926-1945, Nxb CTQG - ST, H, 2012, tr. 353-354, 361-364.

TS LƯƠNG VIẾT SANG
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1. Do ý nghĩa và tầm ảnh hưởng to lớn của Cách mạng Tháng Tám 1945 ở Việt Nam mà sự kiện này đã sớm thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước. Hầu hết các công trình nghiên cứu ở nước ngoài, với những nguồn tư liệu phong phú đã góp phần cung cấp thêm cho người đọc có một một bức tranh đầy đủ hơn về một sự kiện lớn, bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử nhất trong lịch sử đương đại Việt Nam. Vì những nguyên nhân khác nhau, trong đó có ảnh hưởng của thời kỳ đối đầu căng thẳng giữa hai hệ thống tư tưởng, nên một số công trình nghiên cứu đã đưa ra những nhận xét không đúng với thực tế lịch sử đã diễn ra của Cách mạng Tháng Tám, trong đó có nhận x&ea

Tin khác cùng chủ đề

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong thời đại Trí tuệ nhân tạo: Cơ hội, thách thức và giải pháp
Kinh tế xanh - Yêu cầu tất yếu của phát triển
Lực lượng sản xuất mới trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
Cở sở lý luận, thực tiễn và một số giải pháp thúc đẩy hoạt động ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế Việt Nam trong kỷ nguyên mới
Phát huy hiệu quả công tác dân vận trong Quân đội Nhân dân Việt Nam hiện nay
Vai trò của đổi mới sáng tạo trong vận hành chính quyền địa phương hai cấp

Gửi bình luận của bạn