Bài viết phân tích những nội dung cốt lõi trong tư tưởng giải phóng con người của Ph.Ăngghen: Con người hiện thực là điểm xuất phát, đồng thời là mục đích giải phóng trong học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen; Tiền đề kinh tế của sự giải phóng con người là phát triển lực lượng sản xuất; Giải phóng con người không thể tách rời xây dựng môi trường xã hội lành mạnh thuận lợi cho con người phát triển; Chỉ trong chủ nghĩa cộng sản con người mới được giải phóng triệt để, có tự do đầy đủ, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Những tư tưởng giải phóng con người của Ph.Ăngghen đã, đang và vẫn tiếp tục soi sáng con đường cách mạng cũng như sự nghiệp đổi mới vì giải phóng con người Việt Nam của Đảng.

Tư tưởng Ph.Ăngghen về giải phóng con người giá trị lịch sử và ý nghĩa trong thời đại ngày nay
Tư tưởng Ph.Ăngghen về giải phóng con người giá trị lịch sử và ý nghĩa trong thời đại ngày nay

1. Ph.Ăngghen (1820-1895) - nhà lý luận lỗi lạc của giai cấp công nhân, cùng với C.Mác đã sáng lập ra chủ nghĩa Mác. Ph.Ăngghen, sáng tạo ra học thuyết giải phóng con người khác với các trào lưu triết học trước đó, cũng như các trào lưu triết học đương thời. Tư tưởng giải phóng con người của C.Mác cũng như của Ph.Ăngghen được thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:

Thứ nhất, con người hiện thực là điểm xuất phát, đồng thời là mục đích giải phóng trong học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen. 

Cùng với C.Mác, Ph.Ăngghen coi con người hiện thực là tiền đề của lịch sử, tiền đề học thuyết giải phóng con người của các ông. Các ông khẳng định: “Những tiền đề xuất phát của chúng tôi không phải là những tiền đề tùy tiện, không phải là giáo điều; đó là những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi. Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra. Như vậy, những tiền đề ấy là có thể kiểm nghiệm được bằng con đường kinh nghiệm thuần túy”1. “Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống”2. Cách xem xét này bắt đầu từ những tiền đề hiện thực, là những cá nhân hiện thực với những hoạt động của họ. Như vậy, cùng với C.Mác, Ph.Ăngghen bắt đầu từ con người chứ không phải bỏ rơi con người như các học giả tư sản thường tuyên bố. Nhưng quan niệm về con người của C.Mác, Ph.Ăngghen khác với quan niệm của phái Hêghen trẻ cũng như quan điểm của Phoiơbắc ở chỗ, con người với tư cách là tiền đề của lịch sử nhưng lại là con người hiện thực. “Cách xem xét này không phải không có tiền đề. Nó xuất phát từ những tiền đề hiện thực và không phút nào xa rời những tiền đề ấy. Những tiền đề ấy là những con người, không phải những con người ở trong một tình trạng biệt lập và cố định tưởng tượng mà là những con người trong quá trình phát triển - quá trình phát triển hiện thực và có thể thấy được bằng kinh nghiệm - của họ dưới những điều kiện nhất định”3. Xuất phát từ con người hiện thực này, cùng với C.Mác, Ph.Ăngghen đi đến kết luận rằng việc giành tự do cho con người là do lực lượng sản xuất quyết định. Từ lịch sử loài người cho thấy, tất cả những việc giành tự do cho đến nay diễn ra đều dựa trên cơ sở lực lượng sản xuất có hạn. Do vậy, sự phát triển con người được diễn ra dưới hình thức: “một số người này dựa vào một số người khác mà thỏa mãn những nhu cầu của mình mà do đó họ - thiểu số - được độc quyền phát triển, còn những người khác - đa số - vì phải thường xuyên tiến hành đấu tranh để thỏa mãn những nhu cầu bức thiết nhất nên tạm thời (tức là cho đến khi sản xuất ra lực lượng sản xuất cách mạng mới) bị tước mất mọi khả năng phát triển”4. Chính vì vậy, xã hội loài người luôn phát triển trong khuôn khổ đối lập: giữa người tự do và người nô lệ; giữa quý tộc và nông nô; tư sản và vô sản5. Nói một cách khác như trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã diễn đạt “Tất cả những xã hội trước kia, như chúng ta đã thấy, đều dựa trên sự đối kháng giữa các giai cấp áp bức với các giai cấp bị áp bức”6. Trong xã hội tư sản đương đại thì hai ông cho rằng “Xã hội không thể sống dưới sự thống trị của giai cấp tư sản nữa, như thế có nghĩa là sự tồn tại của giai cấp tư sản không còn tương dung với sự tồn tại của xã hội nữa”7. Do đó, phải đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản để làm tiền đề giải phóng con người. C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”8. Khi ấy con người sẽ được giải phóng hoàn toàn.

Thứ hai, tiền đề kinh tế của sự giải phóng con người là phát triển lực lượng sản xuất. 

Trong các tác phẩm viết riêng cũng như viết chung cùng với C.Mác, chúng ta thấy rất rõ tư tưởng của Ph.Ăngghen về sự phát triển của lực lượng sản xuất như tiền đề kinh tế quan trọng cho sự giải phóng con người. Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, cùng với C.Mác, Ph.Ăngghen khẳng định: “Sự phát triển ấy của những lực lượng sản xuất (cùng với sự phát triển này, sự tồn tại có tính chất lịch sử thế giới, chứ không phải có tính chất địa phương nhỏ hẹp, của con người đã thực hiện một cách kinh nghiệm chủ nghĩa) là tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết, vì không có nó thì tất cả sẽ chỉ là sự nghèo nàn sẽ trở thành phổ biến;  mà với sự thiếu thốn tột độ thì ắt sẽ bắt đầu trở lại một cuộc đấu tranh để giành những cái cần thiết, thế là người ta lại không tránh khỏi rơi vào cũng sự ti tiện trước đây”9. Nghĩa là nếu lực lượng sản xuất không phát triển thì lại tái diễn xã hội phát triển trong khuôn khổ đối lập các giai cấp. Như vậy thì con người, trước hết là giai cấp công nhân không thể được giải phóng. Cùng với C.Mác, Ph.Ăngghen còn phân tích chỉ ra rằng, “chế độ tư hữu chỉ có thể bị xóa bỏ trong điều kiện cá nhân được phát triển toàn diện, bởi vì những hình thức giao tiếp (quan hệ sản xuất - tác giả nhấn mạnh) và lực lượng sản xuất hiện có là toàn diện, và chỉ những cá nhân được phát triển toàn diện mới có thể chiếm hữu được chúng, nghĩa là mới có thể biến chúng thành hoạt động sống tự do của mình”10. Đặc biệt, Ph.Ăngghen chỉ rõ, chỉ trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất thì mới xóa bỏ được sở hữu tư nhân, sự phân công lao động xã hội không hợp lý và mới liên hiệp được các cá nhân để tạo tiền đề giải phóng con người: “việc xóa bỏ chế độ tư hữu và sự phân công lao động cũng đồng thời là sự liên hợp những cá nhân do lực lượng sản xuất hiện đại và những quan hệ thế giới tạo nên”11.

Thứ ba, giải phóng con người không thể tách rời xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, thuận lợi cho con người phát triển. 

Trong các tác phẩm của mình, cùng với C.Mác, Ph.Ăngghen cho rằng quan niệm duy vật về lịch sử của các ông “không căn cứ vào tư tưởng để giải thích thực tiễn, nó giải thích sự hình thành của tư tưởng căn cứ vào thực tiễn vật chất, và do đó, nó đi tới kết luận rằng không thể đập tan được mọi hình thái và sản phẩm của ý thức bằng sự phê phán tinh thần,.., mà chỉ bằng việc lật đổ một cách thực tiễn những quan hệ xã hội hiện thực đã sản sinh ra tất cả những điều nhảm nhí duy tâm đó”12. Hơn nữa, mỗi thế hệ người sinh ra đều nhận được từ những tiền bối, một khối lớn những lực lượng sản xuất, song cũng quy định cho thế hệ mới những điều kiện sinh hoạt mới. Nói khác đi “con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy”13. Do đó, muốn giải phóng được con người thì phải giải phóng con người khỏi những hoàn cảnh xã hội không lành mạnh, không thuận lợi, xây dựng một môi trường xã hội lành mạnh, thuận lợi cho con người phát triển toàn diện. Theo Ph.Ăngghen, từ trước tới nay, con người luôn bị bao bọc bởi cộng đồng giả, cộng đồng hư ảo, môi trường xã hội không lành mạnh. Các cộng đồng hư ảo này còn là những xiềng xích để nô dịch con người. Nghĩa là chỉ có cá nhân của giai cấp thống trị, và trong khuôn khổ của giai cấp thống trị mới có tự do cá nhân. Do vậy, phải đập tan những cộng đồng hư ảo này, xây dựng những cộng đồng lành mạnh, chân chính thì con người mới có điều kiện phát triển tự do, toàn diện. Bởi lẽ, “Chỉ có trong cộng đồng, cá nhân mới có được những phương tiện để có thể phát triển toàn diện những năng khiếu của mình, và do đó, chỉ có trong cộng đồng mới có thể có tự do cá nhân”14; “Trong điều kiện của những cộng đồng thật sự, các cá nhân có được tự do khi họ liên hợp lại và nhờ sự liên hợp ấy”15

Thứ tư, chỉ trong chủ nghĩa cộng sản con người mới được giải phóng triệt để, có tự do đầy đủ, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. 

C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra rằng, trong tất cả các xã hội trước CNCS, con người vẫn bị tha hóa, do vậy con người chưa được giải phóng triệt để, chưa có tự do đích thực, chưa thể phát triển toàn diện cá nhân được. Trong các xã hội ấy “hành động của bản thân con người sẽ trở thành một lực lượng xa lạ, đối lập với con người, nô dịch con người, chứ không phải bị con người thống trị”16. Còn “trong xã hội cộng sản, trong đó không ai bị hạn chế trong một phạm vi hoạt động độc chuyên, mà mỗi người đều có thể tự hoàn thiện mình trong bất cứ lĩnh vực nào thích, thì xã hội điều tiết toàn bộ nền sản xuất, thành thử tôi có khả năng hôm nay làm việc này, ngày mai làm việc khác, buổi sáng đi săn, quá trưa đi đánh cá, buổi chiều chăn nuôi, sau bữa cơm thì làm việc phê phán, thùy theo sở thích của tôi...”17. Do đó, phải thực hiện cách mạng CSCN để giải phóng triệt để con người, tạo ra một xã hội mới cho con người phát triển toàn diện. Tuy nhiên, các ông cũng nhấn mạnh, cách mạng CSCN cũng như mọi cuộc cách mạng xã hội khác, “là tất yếu không những vì không thể lật đổ giai cấp thống trị bằng một phương thức nào khác mà còn vì chỉ có trong cách mạng giai cấp đi lật đổ giai cấp khác mới có thể quét sạch mọi sự thối nát của chế độ cũ đang bám chặt theo mình và trở thành có năng lực xây dựng cơ sở mới cho xã hội”18. Chỉ trong cách mạng vô sản, giai cấp vô sản mới gột rửa sạch mình và phát triển, đồng thời mới có năng lực xây dựng xã hội mới và tạo điều kiện cho con người giải phóng triệt để. 

 

2. Mặc dù Ph.Ăngghen đã đi vào thế giới vĩnh hằng 125 năm, thực tiễn đã có nhiều đổi thay, nhân loại đã chứng kiến những thăng trầm của mô hình CNXH hiện thực trong giải phóng con người, nhưng những tư tưởng giải phóng con người của Ph.Ăngghen vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa thời đại. Bởi lẽ, những tư tưởng giải phóng con người này của ông đã, đang và vẫn tiếp tục soi sáng con đường cách mạng cũng như sự nghiệp đổi mới vì giải phóng con người của Đảng và nhân dân Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam không có mục tiêu nào khác ngoài mục tiêu giải phóng con người Việt Nam triệt để. Từ tư tưởng về giải phóng con người của Ph.Ăngghen chúng ta cần nhận thức và quán triệt tốt một số vấn đề cốt lõi trong sự nghiệp đổi mới vì giải phóng con người như sau:

 

Một là, để giải phóng triệt để con người Việt Nam, chúng ta phải nhận thức đúng đắn và kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì tư tưởng giải phóng con người của Ph.Ăngghen. Bởi lẽ, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng giải phóng con người của Ph.Ăngghen nói riêng không có mục tiêu nào khác là giải phóng con người, trước hết là giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động khỏi mọi hình thức nô dịch, áp bức, bóc lột. Trong lịch sử loài người cũng đã có không ít học thuyết, tư tưởng đề ra mục tiêu giải phóng con người nhưng tất cả các học thuyết, tư tưởng này đều không đề ra được biện pháp, con đường thực sự khoa học, thực tiễn, triệt để để giải phóng con người trên thực tế. Chỉ có chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mới chỉ ra được mục tiêu, con đường, biện pháp đúng đắn và lôi cuốn đông đảo những người lao động tham gia vào sự nghiệp giải phóng chính mình và giải phóng nhân loại. Vì vậy, trước những tấn công, xuyên tạc, bội nhọ, bóp méo,... của các quan điểm sai trái, thù địch đối với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta phải kiên trì, kiên định, tỉnh táo vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo trong điều kiện thực tiễn Việt Nam.

 Hai là, trong điều kiện hiện nay, muốn giải phóng con người Việt Nam triệt để cần kiên trì độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Bởi lẽ, chỉ có CNXH mới tạo ra điều kiện cần và đủ để giải phóng con người toàn diện, triệt để. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định, một trong những đặc trưng của CNXH mà nhân dân ta xây dựng là “con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”19. Nếu độc lập dân tộc mà không đi lên CNXH thì độc lập dân tộc không bền vững, không đầy đủ, không triệt để. Như vậy, cuối cùng dân tộc cũng không được độc lập thực sự. Nghĩa là con người của dân tộc cũng không thể giải phóng triệt để khỏi ách áp bức, bóc lột, nô dịch của ngoại bang. Thực tiễn lịch sử phát triển của nhiều quốc gia, dân tộc đã cho thấy rất rõ điều này. CNHX hiện thực, mặc dù có những hạn chế nhất định nhưng đã tạo ra một mô hình giải phóng con người, mà trước hết là giải phóng những người lao động mà chưa một mô hình nào vượt qua được. Sự sụp đổ của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu có nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng không phải do nguyên nhân giải phóng con người mà chủ yếu do sai lầm giáo điều, cứng nhắc khi vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin. Do vậy, chỉ có kiên trì đi lên CNXH, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhân dân Việt Nam mới thực hiện được mục tiêu giải phóng con người Việt Nam triệt để.

Ba là, để có điều kiện vật chất, kỹ thuật giải phóng con người Việt Nam, chúng ta phải đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, phát triển mạnh mẽ kinh tế -văn hóa - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh,... Chỉ trên cơ sở phát triển nhanh, bền vững toàn diện các mặt kinh tế - văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh, môi trường,.. chúng ta mới tạo ra được những điều kiện vật chất, kỹ thuật, văn hóa, xã hội,.. thuận lợi cho giải phóng con người Việt Nam triệt để. Không phải ngẫu nhiên mà trong phương hướng xây dựng CNXH, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng Cộng sản Việt Nam lại đề ra các nhiệm vụ “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”20.

Bốn là, kiên trì đường lối đổi mới toàn diện, đúng đắn của Đảng. Bởi lẽ, gần 35 năm đổi mới cho thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự tham gia tích cực, toàn dân, sự nỗ lực cố gắng của cả hệ thống chính trị, chúng ta đã “đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng; đất nước tiếp tục phát triển nhanh và khá toàn diện, chuyển biến tích cực với nhiều dấu ấn nổi bật”21 có ý nghĩa to lớn trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,.. 

Đặc biệt, trong cuộc chống đại dịch Covid-19 đã cho thấy mục tiêu vì con người Việt Nam của Đảng và Nhà nước luôn được đặt lên hàng đầu. Vì con người chúng ta sẵn sàng hy sinh kinh tế. Bởi lẽ, vì con người, cho con người, tất cả vì con người Việt Nam, không để người Việt Nam nào tụt lại phía sau luôn là phương châm hành động của Đảng, Nhà nước ta. Đồng thời, những thành tựu nổi bật này đã khẳng định sự đúng đắn của đường lối đổi mới toàn diện của Đảng. Những thành tựu này ngày càng được tăng cường, củng cố góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Nghĩa là góp phần trực tiếp vào giải phóng con người Việt Nam. Do đó, để vận dụng tư tưởng của Ph.Ăngghen về giải phóng con người có hiệu quả, cùng với kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì độc lập dân tộc với CNXH thì chúng ta phải kiên trì đường lối đổi mới toàn diện, đúng đắn của Đảng.

 

Bài đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng (in), số 11/2020

1, 2, 3, 4, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, T. 3, tr. 28-29, 29, 38, 633, 49, 643-644, 644, 54, 55, 108, 108, 47, 47, 100-101

5. Xem thêm: C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, T. 3, tr. 633

6, 7, 8. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, T. 4, tr. 612, 612, 628

19, 20. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr. 70, 70

21. Bài phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng: “Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới”, Báo Nhân Dân, ngày 1-9-2020, tr. 2.

GS, TS TRẦN VĂN PHÒNG
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1. Ph.Ăngghen (1820-1895) - nhà lý luận lỗi lạc của giai cấp công nhân, cùng với C.Mác đã sáng lập ra chủ nghĩa Mác. Ph.Ăngghen, sáng tạo ra học thuyết giải phóng con người khác với các trào lưu triết học trước đó, cũng như các trào lưu triết học đương thời. Tư tưởng giải phóng con người của C.Mác cũng như của Ph.Ăngghen được thể hiện ở những điểm chủ yếu sau: Thứ nhất, con người hiện thực là điểm xuất phát, đồng thời là mục đích giải phóng trong học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen.  Cùng với C.Mác, Ph.Ăngghen coi con người hiện thực là tiền đề của lịch sử, tiền đề học thuyết giải phóng con người của các ông. Các ông khẳng định: “Những tiền đề xuất phát của chúng tôi không phải là những tiền đề tùy

Tin khác cùng chủ đề

Sức mạnh trường tồn của Đảng là niềm tin của Nhân dân
Những thành tựu lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam 95 năm qua
Mùa xuân khơi dậy khát vọng phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới
Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng
Quan điểm phát triển văn hóa, con người trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Bảo đảm tính đảng và tính khoa học của khoa học lịch sử và khoa học chính trị trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch

Gửi bình luận của bạn