Cách đây 77 năm, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở giai đoạn cam go, quyết liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc nhằm kêu gọi toàn dân tích cực thi đua diệt giặc đói, giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm… Bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, những tư tưởng của Bác trong Lời kêu gọi thi đua ái quốc vẫn vẹn nguyên giá trị, trở thành nền tảng, động lực để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục ra sức thi đua đóng góp vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

Phát huy ý nghĩa của Lời kêu gọi thi đua ái quốc, vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Phát huy ý nghĩa của Lời kêu gọi thi đua ái quốc, vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

1. Lời kêu gọi thi đua ái quốc - Những giá trị lịch sử trường tồn

1.1. Bối cảnh ra đời

Trong thời điểm đất nước vừa được giải phóng, Nhà nước ta gặp nhiều khó khăn, phải đương đầu với nạn đói, nạn dốt và giặc ngoại xâm, để huy động sức người, sức của trong dân, thực hiện nhiệm vụ cách mạng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng việc tổ chức các phong trào thi đua trên các lĩnh vực đời sống xã hội như: Phát động chiến dịch tăng gia sản xuất để diệt giặc đói; mở chiến dịch chống nạn mù chữ để diệt giặc dốt và các phong trào “Tuần lễ vàng”, “Nam tiến”; phong trào thực hiện “Đời sống mới”.

Ngày 27/3/1948, theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương ra Chỉ thị “Phát động phong trào thi đua ái quốc”. Ngày 01/6/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 195 thành lập Ban vận động thi đua cứu quốc Trung ương, do đồng chí Tôn Đức Thắng làm Trưởng ban. Ngày 11/6/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc nhân kỷ niệm 1.000 ngày kháng chiến toàn quốc và để kêu gọi Nhân dân hưởng ứng phong trào thi đua ái quốc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương phát động ngày 27/3/1948 theo sáng kiến của Người.

1.2. Giá trị và ý nghĩa to lớn

Với ngôn ngữ giản dị, Lời kêu gọi thi đua ái quốc tuy cô đọng, hàm súc nhưng chứa đựng những giá trị sâu sắc. Mở đầu Lời kêu gọi, Hồ Chủ tịch viết: “Mục đích thi đua ái quốc là: Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”. Chỉ ngắn gọn trong 10 từ “Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”, nhưng Người đã nêu lên nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân cũng như mục đích của phong trào thi đua ái quốc, đồng thời chỉ rõ thứ tự ưu tiên, đó là diệt giặc đói trước (để cứu mạng sống của dân), diệt giặc dốt (để có tri thức chống được ngoại xâm, nhất là thực dân Pháp).

Để thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua ái quốc, Bác đã nêu rõ cách làm là: “Dựa vào:

Lực lượng của dân,

Tinh thần của dân, để gây:

Hạnh phúc cho dân”

“Vì vậy bổn phận của người dân Việt Nam, bất kỳ sĩ, nông, công, thương, binh; bất kỳ làm việc gì, đều cần phải thi đua nhau:

Làm cho mau,

Làm cho tốt,

Làm cho nhiều.”

Lời kêu gọi không chỉ thể hiện rõ mục đích mà vạch rõ quan điểm, nội dung cũng như phương pháp, cách thức để thực hiện. Đồng thời, Người cũng chỉ rõ, thi đua ái quốc là nhiệm vụ cách mạng của mỗi người dân nên phong trào thi đua phải mang tính chất toàn dân. Tính nhân dân của phong trào thi đua được thể hiện ở việc tổ chức cho các tầng lớp nhân dân được quyền và có nghĩa vụ đóng góp vào công việc chung của đất nước, tùy theo sức lực của mình. Bác nhấn mạnh: “Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ, đều cần phải trở nên một chiến sĩ tranh đấu trên mặt trận: Quân sự, kinh tế, chính trị, văn hoá. Thực hiện khẩu hiệu:

Toàn dân kháng chiến,

Toàn diện kháng chiến.”

Lời kêu gọi thi đua ái quốc như một lời “hịch” để phát động một phong trào quần chúng rộng lớn, nhằm “kháng chiến và kiến quốc thành công”, đồng thời thể hiện quan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức, lãnh đạo một phong trào cách mạng với ý nghĩa quan trọng. Đó là quan điểm về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng, về đoàn kết toàn dân và việc thực hiện nhiệm vụ chiến lược lâu dài.

Chính Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Người đã cuốn hút, cổ vũ, động viên đồng bào và chiến sĩ cả nước thi đua hăng say lao động, sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống giặc đói; thi đua học tập, xóa nạn mù chữ, chống giặc dốt và dũng cảm ngoan cường trong chiến đấu diệt giặc ngoại xâm.

Theo Người, thi đua ái quốc phải tiến hành một cách toàn diện; bởi nhiệm vụ cách mạng ở bất cứ thời kỳ lịch sử nào cũng được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực để hoàn thành mục tiêu chung.

“Dân tộc độc lập,

Dân quyền tự do,

Dân sinh hạnh phúc.”

Bằng phương pháp vận động quần chúng tham gia các phong trào thi đua ái quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơi dậy sức mạnh tiềm tàng trong mỗi con người Việt Nam, từ trẻ đến già, từ miền xuôi đến miền ngược, ra sức đóng góp công sức của mình cho đất nước. Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng, động lực để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ra sức thi đua đóng góp sức người sức của vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc làm nên những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phong trào thi đua ái quốc đã đóng góp một phần không nhỏ vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

2. Lời kêu gọi thi đua ái quốc - Những ý nghĩa của trong thời đại mới

2.1. Những bước chuyển mình của đất nước sau gần 40 năm đổi mới

Phát huy ý nghĩa của Lời kêu gọi thi đua ái quốc, ngày 04/3/2008, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 258/QĐ-TTg về việc lấy ngày 11 tháng 6 hàng năm là Ngày truyền thống thi đua yêu nước. Phong trào thi đua yêu nước được triển khai sâu rộng, sôi nổi trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, mọi ngành, mọi nghề và đem lại hứng khởi, đã thực sự tạo nên hiệu quả sâu rộng trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, tạo nên “thế và lực” để “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” như nhận định của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Sau gần 40 năm đổi mới, 50 năm thống nhất đất nước, 80 năm thành lập nước, đất nước ta đã tạo dựng được vị thế, uy tín trên trường quốc tế, đạt được những thành tựu vẻ vang:

- Về chính trị: Việt Nam giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, bảo đảm vai trò quản lý hiệu quả của Nhà nước, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo tiếp tục được hoàn thiện; có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp dưới sự giám sát của Nhân dân.

- Về kinh tế: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ. Quy mô nền kinh tế năm 2023 đạt 433,7 tỷ USD, đứng thứ 35 trên thế giới, đứng thứ 5 trong ASEAN, GDP bình quân đầu người đạt 4.323 USD, gấp 58 lần sau ba thập kỷ, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 2,93% năm 2023. Năm 2024, tăng trưởng cả năm đạt 7,09% (thuộc nhóm số ít các nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới). GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt 4.700 USD; năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2024 theo giá hiện hành ước đạt 221,9 triệu đồng/lao động. Giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam năm 2024 đạt 507 tỷ USD, xếp thứ 32/193, tăng 1 bậc so với năm 2023. Thu NSNN ước cả năm đạt 2.037,5 nghìn tỷ đồng tăng 19,8% so với dự toán…

- Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế... đều có sự phát triển vượt bậc, định hình hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam. Đến nay có gần 99% số người lớn Việt Nam biết đọc, biết viết, số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 20 lần, phổ cập giáo dục trung học cơ sở từ năm 2014... Tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước được nâng lên. Chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội; chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính sách người có công, chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài... được thực hiện đồng bộ, đạt kết quả tích cực.

- Về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc: Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và lợi ích quốc gia - dân tộc tiếp tục được bảo vệ vững chắc; gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh; tiềm lực quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường trên nhiều mặt.

- Về đối ngoại: Hội nhập quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả, đạt nhiều thành tựu quan trọng, có ý nghĩa chiến lược và lâu dài. Mở rộng, làm sâu sắc thêm quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, vùng lãnh thổ, trong đó có 3 nước quan hệ đặc biệt, 9 nước đối tác chiến lược toàn diện, 19 nước đối tác chiến lược (bao gồm cả 9 nước đối tác chiến lược toàn diện) và 13 nước đối tác toàn diện; mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ…

Đối với tỉnh Khánh Hòa, tự hào tiếp nối truyền thống vẻ vang của một dân tộc vĩ đại, phát huy truyền thống cách mạng sáng ngời của người dân, vùng đất Khánh Hòa, sau ngày giải phóng, tỉnh Khánh Hòa bắt tay ngay vào công cuộc xây dựng lại quê hương, trải qua nhiều thời kỳ khác nhau đã đạt được những thành tựu đáng tự hào. Đặc biệt, giai đoạn 2020 - 2025, tỉnh Khánh Hòa có 3 năm liên tục tăng trưởng kinh tế 2 con số, nằm trong 10 tỉnh, thành phố tăng trưởng cao nhất cả nước. Trong đó, năm 2024, đã hoàn thành toàn bộ 22/22 chỉ tiêu kinh tế - xã hội, thu ngân sách đạt 20.500 tỷ đồng, vượt hơn 20% kế hoạch Trung ương giao… Hiện nay, tỉnh đang tập trung nguồn lực hiện thực hóa các quy hoạch, phát triển trọng điểm các vùng động lực kinh tế; khơi thông các điểm nghẽn, gia tăng các nguồn lực tăng trưởng, thúc đẩy các động lực mới; đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo trở thành động lực. Chuẩn bị tốt đại hội đảng bộ các cấp, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa, nhiệm kỳ 2025-2030, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng; triển khai quyết liệt đề án sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng cán bộ…

2.2. Tạo “thế và lực” để tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Bối cảnh thế giới đang trải qua những thay đổi mang tính thời đại, tạo ra nhiều thời cơ, thuận lợi, nhưng cũng tiềm ẩn khó khăn, thách thức lớn đan xen. Trong nước, việc triển khai những quyết sách chiến lược mang tính cách mạng, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới cao hơn; đồng thời đây cũng là bước ngoặt, vận hội mới mang tính lịch sử đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ tổ quốc trong kỷ nguyên phát triển mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Viết tiếp những trang sử hào hùng, vẻ vang của dân tộc, tiếp bước lời dạy của Bác, kỷ nguyên mới đặt ra những mục tiêu cụ thể, đó là: Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Kỷ nguyên mới mà chúng ta đang bước tới - với công nghệ trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, kinh tế xanh và phát triển bền vững - đòi hỏi phải có tư duy mới, mô hình phát triển mới, con người mới. Lịch sử đã chứng minh: Dân tộc Việt Nam chưa từng lùi bước trước gian nan, khó khăn, thách thức. Vấn đề là chúng ta có đủ dũng khí để thay đổi, đủ ý chí để vươn lên, và đủ đoàn kết để biến khó khăn thành động lực phát triển hay không.

 Có thể thấy, để đạt được mục tiêu đó, tính Nhân dân trong lời hiệu triệu của Hồ Chủ tịch càng cần phải phát huy mạnh mẽ hơn nữa. Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của dân tộc, viết tiếp những trang sử hào hùng trong thời đại mới, mỗi người dân Việt Nam cần phải ý thức được trách nhiệm, vai trò, vị trí của chính mình, góp sức mình vào công cuộc chung của đất nước.

Khẳng định chân lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. Trong bài viết “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” nhân kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Tổng Bí thư Tô Lâm một lần nữa nhấn mạnh: Thế hệ hôm nay - từ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức đến công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, học sinh, sinh viên, mọi tầng lớp nhân dân đều là con Rồng cháu Tiên - cần ý thức sâu sắc rằng: Chúng ta đang thừa hưởng những giá trị di sản vĩ đại từ cha ông, và chúng ta có trách nhiệm làm rạng danh đất nước trong thời đại mới. Mỗi hành động hôm nay phải xứng đáng với máu xương đã đổ xuống, với những hy sinh mất mát mà cả dân tộc đã từng gánh chịu.

Trong bối cảnh chung của cả nước, tỉnh Khánh Hòa đang đứng trước những tiềm năng, cơ hội, vận hội lớn để tiếp tục phát triển trong tương lai, nhất là giai đoạn 2026 - 2030. Đến tháng 9/2025, Tỉnh Khánh Hòa mới sẽ được hình thành sau hợp nhất tỉnh Ninh Thuận và tỉnh Khánh Hòa sẽ mở rộng không gian phát triển với chiều dài bờ biển dài nhất cả nước; các tiềm năng, lợi thế của mỗi địa phương trước khi hợp nhất sẽ được phát huy tối đa, bổ trợ lẫn nhau để phát triển; việc kết hợp hai nền kinh tế sẽ giúp bổ sung cơ cấu ngành nghề, tạo ra các chuỗi liên kết vùng, thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới dựa trên việc tận dụng ưu thế của các địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, tỉnh cũng sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức đòi hỏi phải có tư duy chiến lược và những đột phá mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực, nhất là khơi dậy được tiềm năng, thế mạnh, sức mạnh đoàn kết của toàn đảng bộ, toàn dân, toàn quân, phấn đấu xây dựng tỉnh nhà trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2030.

3. Tập trung định hướng tư tưởng, tập hợp sức mạnh toàn dân trong kỷ nguyên mới của dân tộc

Trong bối cảnh thế giới biến động nhanh, khó lường, mỗi khúc quanh của lịch sử thế giới đều có thể trở thành cơ hội hoặc thách thức lớn đối với đất nước ta và dự báo cũng tác động không nhỏ đến sự phát triển của tỉnh nhà. Bối cảnh mới cũng tiềm ẩn nhiều vấn đề dư luận, nếu không có sự định hướng kịp thời về mặt tư tưởng sẽ dễ phát sinh “điểm nóng”, tạo cớ cho các đối tượng thù địch, bất mãn chính trị lợi dụng, xuyên tạc, nhất là đối với những quyết sách quan trọng, quyết định những vấn đề lịch sử của dân tộc, trong đó có chủ trương xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Đây là một bước đi mạnh mẽ, thể hiện quyết tâm chính trị cao của Trung ương Đảng trong tiến trình cải cách bộ máy nhà nước, là cuộc cách mạng lớn để đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên vươn mình và cũng là cuộc cách mạng tác động trực tiếp đến lực lượng cán bộ, công chức, viên chức. “Tư tưởng không thông vác bình tông cũng nặng”. Chính vì vậy, công tác tuyên truyền, vận động, tạo sự đồng thuận trong cán bộ, đảng viên, Nhân dân là vấn đề then chốt, cần được quan tâm hàng đầu. Điều này cũng đặt ra cho công tác tuyên giáo và dân vận những nhiệm vụ mới:

Thứ nhất, mỗi cán bộ tuyên giáo và dân vận phải rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, tin tưởng và tự hào tiến bước dưới lá cờ vẻ vang của Đảng. Đây là tiêu chí quan trọng hàng đầu. Đặc biệt, cán bộ trẻ càng phải trau dồi lý tưởng cách mạng, có ý chí, khát vọng, tinh thần học hỏi, không ngừng tu dưỡng về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và năng lực công tác; tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng; phòng, chống các biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; không để sa vào chủ nghĩa cá nhân.

Thứ hai, chủ động, sáng tạo, hội nhập, phát huy mạnh mẽ vai trò tiên phong, xung kích, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Mỗi cán bộ phải dám nghĩ, dám làm, mạnh dạn tham mưu, đổi mới trong công việc; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, đẩy mạnh tuyên truyền trên các nền tảng mạng xã hội thu hút dư luận quan tâm để đưa những thông tin chính thống đến gần nhất, nhanh nhất với các tầng lớp nhân dân.

Thứ ba, bám sát thực tiễn, gắn bó mật thiết với Nhân dân, nắm bắt tư tưởng, đi sâu, đi sát, kịp thời để tham mưu định hướng tuyên truyền, vận động Nhân dân đồng thuận đối với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là đối với việc triển khai các quy hoạch, dự án trọng điểm của tỉnh. Đặc biệt, trong nỗ lực sắp xếp, tinh gọn bộ máy, nhiều vấn đề khó khăn sẽ còn tiếp tục đặt ra đối với công tác tư tưởng, nhất là việc làm tốt công tác tư tưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức - những người bị ảnh hưởng trực tiếp trong cuộc cách mạng về tinh gọn bộ máy.

Thứ tư, cán bộ tuyên giáo và dân vận cần có nhãn quan dự báo, nắm bắt tư tưởng cả trên thực địa và không gian mạng, qua việc theo dõi các trang, nhóm cộng đồng có nhiều lượt tương tác để kịp thời báo cáo, tham mưu hướng xử lý. Đồng thời, nâng cao năng lực nhận diện, đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, tăng cường lan tỏa thông tin tích cực, chính thống, góp phần tạo sự đồng thuận, thống nhất trong nhân dân. Không chia sẻ thông tin chưa được kiểm chứng, tăng cường bảo vệ bí mật nhà nước trên không gian mạng.

Thứ năm, có phương pháp làm việc khoa học, tâm huyết, yêu nghề. Trước khối lượng công việc lớn, yêu cầu ngày càng cao, cán bộ tuyên giáo và dân vận cần có tác phong khoa học, sắp xếp công việc hợp lý, hiệu quả, dành thời gian nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi để nâng cao chất lượng tham mưu.

Để đạt được các mục tiêu trên, mỗi cán bộ, đảng viên, công chức cần không ngừng nỗ lực, thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu mạnh để đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Những kết quả mà đất nước ta và tỉnh nhà đạt được hôm nay là cả quá trình phấn đấu, nỗ lực, là ý Đảng đã hòa với lòng dân “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”, là sự chung sức, đồng lòng của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Khánh Hòa. Kỳ vọng rằng, những bước đi vững chắc trong chỉ đạo của Đảng, Nhà nước sẽ huy động được sức mạnh lòng dân để cuộc cách mạng về tinh gọn bộ máy đạt được kết quả như mong muốn, tạo tiền đề vững chắc để đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Hoàng Vy

1. Lời kêu gọi thi đua ái quốc - Những giá trị lịch sử trường tồn 1.1. Bối cảnh ra đời Trong thời điểm đất nước vừa được giải phóng, Nhà nước ta gặp nhiều khó khăn, phải đương đầu với nạn đói, nạn dốt và giặc ngoại xâm, để huy động sức người, sức của trong dân, thực hiện nhiệm vụ cách mạng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng việc tổ chức các phong trào thi đua trên các lĩnh vực đời sống xã hội như: Phát động chiến dịch tăng gia sản xuất để diệt giặc đói; mở chiến dịch chống nạn mù chữ để diệt giặc dốt và các phong trào “Tuần lễ vàng”, “Nam tiến”; phong trào thực hiện “Đời sống mới”. Ngày 27/3/1948, theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương ra Chỉ thị “Phát động phong trào thi đua ái quốc”. Ng&ag

Tin khác cùng chủ đề

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tận tụy, liêm, chính theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Xây dựng xã hội học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Quét sạch chủ nghĩa cá nhân để phòng, chống suy thoái
Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về chống “giặc nội xâm” đến cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong thời kỳ đổi mới
Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về làm gương, nêu gương và noi gương của cán bộ, đảng viên và giải pháp thực hiện
Nội dung xây dựng Đảng về đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng

Gửi bình luận của bạn