Tư tưởng Hồ Chí Minh về việc thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1954 - 1975 là một trong những sáng tạo lý luận quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bằng cách sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, như: nghiên cứu tài liệu, tổng hợp, phân tích, lịch sử và logic… bài viết phân tích làm sáng tỏ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những điều kiện để thực hiện thành công đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về những điều kiện để thực hiện thắng lợi đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975
Tư tưởng Hồ Chí Minh về những điều kiện để thực hiện thắng lợi đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975

1. Đặt vấn đề

Sau Hiệp định Giơnevơ, Việt Nam bước vào một giai đoạn cách mạng mới với đặc điểm nổi bật là đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Miền Bắc hoàn thành những nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; miền Nam vẫn đang bị đế quốc Mỹ và các thế lực phản động tay sai thống trị. Từ đó, đặt ra vấn đề, phải tìm con đường phát triển phù hợp với đặc điểm mới của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, đây không phải là vần đề dễ dàng vì cả lý luận chủ nghĩa Mác – Lê-nin và thực tiễn cách mạng Việt Nam cũng như thế giới chưa khi nào, chưa quốc gia nào trải qua hình thái tương tự. 

Trong bối cảnh đó, với tài năng và tầm nhìn chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng không ngừng của Lê-nin vào điều kiện Việt Nam sau 1954, hình thành nên lý luận về tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ cách mạng khác nhau ở hai miền. Trong đó, miền Bắc đã hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thì tiếp tục tiến lên giai đoạn cách mạng cao hơn đó là cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Miền Nam chưa hoàn thành dân tộc dân chủ nhân dân thì tiếp tục cuộc cách mạng đó đến thắng lợi hoàn toàn. Người nói: “cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay bao gồm hai nhiệm vụ thuộc hai chiến lược khác nhau: một là, thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, củng cố miền Bắc thành cơ sở ngày càng vững chắc cho cuộc đấu tranh giành thống nhất Tổ quốc; hai là, đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị tàn bạo của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai”1. Tư tưởng này của Người vừa thể hiện sự trung thành với những nguyên lý về cách mạng không ngừng của Lê-nin nhưng đồng thời cũng thể hiện sự sáng tạo lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào hoàn cảnh cụ thể.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng, hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng mỗi miền có tính chất, đối tượng, phương pháp riêng nhưng “cùng nhằm một mục tiêu chung trước mắt là thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh, cho nên hai nhiệm vụ ấy quan hệ mật thiết với nhau, thúc đẩy lẫn nhau”2 không thể tách rời và phải được tiến hành đồng thời. Trong đó, nhiệm vụ “xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi thì đấu tranh thống nhất nước nhà nhất định thắng lợi”đặt ra cấp thiết. Cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước ở miền Nam thắng lợi, có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

Người cũng cho rằng: “xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh để thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà là công việc mới mẻ, khó khăn và vĩ đại”4, lâu dài, gian khổ, vì chúng ta vừa phải chống lại siêu cường số 1 thế giới, vừa phải xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu, chưa trải qua thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản, lại bị thực dân đô hộ, chiến tranh tàn phá gần cả trăm năm nay. Với tính chất “mới mẻ, khó khăn” như vậy nên để thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, chúng ta cần phải thấu hiểu các điều kiện, tuân thủ các nguyên tắc, qua đó mà tìm ra những phương pháp cách mạng phù hợp.

2. Điều kiện thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng giai đoạn 1954 – 1975

Thứ nhất, “Để xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, chúng ta cần phải tăng cường không ngừng sự lãnh đạo của giai cấp công nhân…”5 với đội tiền phong của mình đó là Đảng Cộng sản.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đã chứng minh, Đảng không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân mà còn là đội tiền phong của Nhân dân lao động và toàn dân tộc. Dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, “Đảng 12 tuổi thì tổ chức phong trào du kích đánh Pháp, đánh Nhật. 15 tuổi, tổ chức và lãnh đạo Cách mạng tháng Tám thành công. 17 tuổi, lãnh đạo kháng chiến và 24 tuổi, kháng chiến thắng lợi”6. Những thắng lợi đó không chỉ là minh chứng cụ thể cho vai trò của Đảng mà còn đưa Đảng ta trở thành nhân tố của mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đó là một thực tế không thể phủ nhận. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để có được những thắng lợi vĩ đại đó là do: 

(1) Đảng ta “biết vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh nước ta một cách sáng tạo để nêu ra đường lối, chính sách đúng đắn, bảo đảm cho cách mạng phát triển thắng lợi”7;

(2) Đảng ta là đảng cách mạng “chỉ có một điều là phục vụ Tổ quốc, phục vụ Nhân dân,… Ngoài lợi ích của Nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác”8;

(3) “Do Đảng ta đoàn kết nhất trí”9 thành một khối thống nhất;

(4) “Cán bộ, đảng viên ta nói chung là những người cộng sản chân chính, trung thành với lợi ích của giai cấp, của Nhân dân…”10 mà không đòi hỏi quyền lợi cho bản thân, cho gia đình;

(5) “Nhân dân ta luôn luôn tin tưởng ở Đảng, đoàn kết khăng khít với Đảng ta”11, yêu kính Đảng, quyết tâm theo sự lãnh đạo của Đảng.

Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, nhiệm vụ mới là vừa phải khôi phục và phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa phải đấu tranh giành thống nhất nước nhà ở miền Nam, tất nhiên “Công việc ngày càng nhiều … khó khăn hơn, to lớn hơn, phức tạp hơn”12. Do đó, để hoàn thành nhiệm vụ khó khăn, phức tạp này, Người yêu cầu: “Đảng ta phải rất mạnh, phải phát triển không ngừng, nhưng phải nhiều về số lượng, đồng thời, phải có chất lượng tốt mới làm tròn được nhiệm vụ lãnh đạo…”13

Để Đảng mạnh và đủ sức lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới, theo Người phải bắt đầu từ mỗi chi bộ, từ mỗi đảng viên. Người cho rằng: “Đảng mạnh là do mỗi một chi bộ mạnh. Chi bộ mạnh là do mỗi một đảng viên ra sức làm trọn… nhiệm vụ”14 mà Đảng giao phó. Bởi vì, Đảng viên tạo ra chi bộ, chi bộ là hạt nhân của Đảng, từ đó suy ra, đảng viên tốt thì Đảng mới mạnh. Bên cạnh đó, Người cũng nhắc nhở: “Để lãnh đạo tốt, các cấp ủy phải thật đoàn kết, thật dân chủ, phải thực hành chế độ “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” và tự phê bình và phê bình và để không ngừng tiến bộ”15. Chỉ có như vậy, Đảng mới đủ sức lãnh đạo thắng lợi đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau ở hai miền, hoàn thành thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, góp phần vào hòa bình, độc lập, dân chủ ở châu Á và thế giới, “xứng đáng là đội tiên phong, là bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của Nhân dân lao động và của cả dân tộc”16.

Thứ hai, để “xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”, “phải đoàn kết toàn dân, đoàn kết trong Đảng và ngoài Đảng…”17.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết luôn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu, là nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh của dân tộc, là lực lượng vô địch để cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn đi đến thắng lợi. Trong đó, đoàn kết trong Đảng được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là hạt nhân của đại đoàn kết toàn dân tộc. Người khẳng định: “Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta vượt nhiều thử thách, gian nguy, thu nhiều thắng lợi to lớn. Cách mạng thành công, kháng chiến thắng lợi. Hoàn toàn giải phóng một nửa nước ta. Có thành quả vĩ đại đó là do Đảng ta đoàn kết nhất trí, Nhân dân ta đoàn kết nhất trí chung quanh Đảng ta… Cho nên chúng ta quý trọng và ra sức bảo vệ sự đoàn kết nhất trí – trong Đảng và trong Nhân dân…”18

Trong bối cảnh đất nước bị chia cắt, mỗi miền thực hiện một nhiệm vụ chiến lược khác nhau với tính chất khó khăn, phức tạp hơn rất nhiều, chỉ có sức mạnh đoàn kết mới giúp Nhân dân ta vượt qua những khó khăn đó, chỉ có đoàn kết chặt chẽ mới làm thất bại âm mưu chia cắt lâu dài đất nước của Mỹ – Diệm. Người khẳng định: “Đại đoàn kết là sức mạnh vô địch của Nhân dân ta trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và trong sự nghiệp đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”19. Do đó, để thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược này, Người đã kêu gọi: “Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đoàn kết cần đoàn kết hơn nữa…”20, kiên quyết, cần phải kiên quyết hơn nữa trong cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.  

Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết luôn là vấn đề được Người đặt lên hàng đầu trong các nhiệm vụ cách mạng của bất cứ giai đoạn cách mạng nào. Đồng thời, nó cũng là nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh, quyết định thành công cho cách mạng Việt Nam. Người nhấn mạnh: “Ngày nay đồng bào miền Bắc thì hăng hái thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng bào miền Nam ruột thịt thì anh dũng phấn đấu giành dân chủ tự do”21, để đi tới thắng lợi thì: “Đồng bào cả nước đoàn kết một lòng/Tiền tuyến hậu phương, toàn dân cố gắng/Thi đua sản xuất, chiến đấu xung phong/Chống Mỹ, cứu nước, ta nhất định thắng”22.

Thứ ba, “Xây dựng quân đội ngày càng hùng mạnh và sẵn sàng chiến đấu để giữ gìn hòa bình, bảo vệ đất nước, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà…”23.

Việc Mỹ – Diệm phá hoại Hiệp định Giơnevơ, từ chối tổng tuyển cử thống nhất đất nước đã đặt cách mạng Việt Nam vào tình thế mới. Mặc dù, điều kiện đấu tranh thống nhất bằng con đường hòa bình chưa phải đã hết nhưng chuẩn bị trước cho một cuộc đấu tranh vũ trang là cần thiết. Điều này thể hiện tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời, cũng là một trong những điều kiện bảo đảm thắng lợi cho việc thực hiện hai nhiệm vụ cách mạng. Người đã dự báo trước được những khó khăn mà cách mạng hai miền sẽ gặp phải khi chúng ta phải đối đầu với siêu cường số một thế giới. Nhiệm vụ xây dựng quân đội ngày càng hùng mạnh, theo Người bao gồm cả việc xây dựng quân đội thường trực chính quy, tinh nhuệ, hiện đại và xây dựng lực lượng dự bị trên tinh thần sẵn sàng chiến đấu bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời chi viện không chỉ sức của mà cả sức người cho tiền tuyến lớn miền Nam. Người cũng dự báo trước được những âm mưu mà Mỹ – Diệm sẽ làm để phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. 

Trong bài nói chuyện với đồng bào và cán bộ xã Nam Liên (Nghệ An) vào ngày 09/12/1961, Người đặt vấn đề: “Bọn Mỹ – Diệm có muốn ta xây dựng chủ nghĩa xã hội không? Nó không muốn, nên nó tìm cách để phá hoại ta”24. Do đó, quân đội không chỉ có nhiệm vụ trực tiếp chiến đấu ở miền Nam trong cuộc đấu tranh chống Mỹ – Diệm mà còn phải đối phó với sự phá hoại của Mỹ – Diệm ở ngay chính miền Bắc. Chính vì thế, Người yêu cầu: “chúng ta phải ra sức xây dựng quân đội ta thành một quân đội nhân dân hùng mạnh, một quân đội cách mạng tiến lên chính quy và hiện đại …”25. Đó là một điều kiện quan trọng để sẵn sàng bảo vệ thành quả của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chi viện kịp thời nhân lực cho cuộc đấu tranh chống Mỹ – Diệm ở miền Nam. Người cũng yêu cầu quân đội bên cạnh nhiệm vụ xây dựng một quân đội hùng mạnh, chính quy, hiện đại, sẵn sàng chiến đấu thì phải “tích cực tham gia công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, làm chỗ dựa vững chắc cho cuộc đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”26

Quan điểm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa thể hiện sự vận dụng sáng tạo tư tưởng “ngụ binh ư nông” của cha ông ta trong điều kiện lịch sử mới vừa thể hiện triệt để tinh thần “muốn hòa bình, hãy chuẩn bị cho chiến tranh”; đồng thời, thể hiện tầm nhìn chiến lược, dự báo thiên tài của Người về cách mạng Việt Nam. Nhờ thực hiện triệt để chủ trương này, chúng ta đã xây dựng một quân đội chính quy, tinh nhuệ, sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng chi viện cho miền Nam, đánh bại hai cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ làm nên trận Điện Biên Phủ trên không lịch sử góp phần quan trọng vào thắng lợi trong cuộc đàm phán ở Paris, tạo nền tảng cho thắng lợi cuối cùng của dân tộc vào năm 1975. 

Thứ tư, “Giương cao ngọn cờ chủ nghĩa Mác – Lê-nin, đoàn kết chặt chẽ với các nước anh em trong đại gia đình xã hội chủ nghĩa, thì công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc ta nhất định thắng lợi, đấu tranh thống nhất nước nhà nhất định thành công”27.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò của chủ nghĩa Mác – Lê-nin đối với cách mạng Việt Nam. Người khẳng định: “Đối với tất cả mọi công tác cách mạng, việc thành lập Đảng và Nhà nước cũng như việc xây dựng kinh tế và văn hóa, chúng tôi đều cố gắng làm theo đường lối Lênin đã vạch ra. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là một thắng lợi của chủ nghĩa Mác – Lênin ở một nước trước đây là thuộc địa”28. Như vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin chính là ngọn đuốc dẫn đường, “ngọn cờ tất thắng” mà chúng ta phải luôn giương cao trong mọi giai đoạn cách mạng, việc xa rời những nguyên lý ấy là xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng chân chính, điều đó khiến cách mạng dễ đi vào bế tắc, thất bại.

3. Giá trị, ý nghĩa lịch sử của hai nhiệm vụ chiến lược trong đại thắng mùa Xuân năm 1975

Người nói: “Những thắng lợi của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, cũng như những thắng lợi của công cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân miền Nam Việt Nam,… chứng tỏ rằng Đảng chúng tôi đã cố gắng vận dụng những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin trong hoàn cảnh cụ thể của nước mình”29. Điều này, không chỉ có ý nghĩa đối với cách mạng Việt Nam mà còn để lại kinh nghiệm cho phong trào cách mạng thế giới góp phần bổ sung và làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. 

Bên cạnh đó, Người cũng coi chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng đoàn kết của khối xã hội chủ nghĩa (XHCN), qua đó kêu gọi sự đồng tình ủng hộ, giúp đỡ của các nước XHCN anh em. Trong chuyến đi thăm các nước XHCN tháng 7/1957 cũng như sau này, trong các bài phát biểu, diễn văn, thư chúc mừng hay điện văn thăm hỏi các nước XHCN, Người luôn giương cao “ngọn cờ tất thắng của chủ nghĩa Mác – Lênin” để kêu gọi sự đoàn kết và tranh thủ sự ủng hộ của họ. Đoàn kết chặt chẽ với các nước XHCN chính là một nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Người cho rằng: “Nhân dân Việt Nam hiểu rõ rằng: đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi. Cho nên muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh vĩ đại ấy, điều kiện quan trọng nhất là sự đoàn kết nhất trí giữa các lực lượng tiến bộ trên thế giới, trước hết là sự đoàn kết nhất trí trong phe xã hội chủ nghĩa và trong phong trào cộng sản quốc tế”30. Chính vì vậy, Người luôn tin tưởng sâu sắc rằng: “Với sự cố gắng của mình, với sự giúp đỡ nhiệt tình của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác, với sự đồng tình ủng hộ của Nhân dân tiến bộ toàn thế giới, nhất định sẽ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, sẽ thắng lợi trong công cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”31 mà không một thế lực phản động, hiếu chiến nào có thể ngăn cản được. 

Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài 21 năm, Nhân dân hai miền Nam – Bắc luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, một lòng sắt son theo Đảng, nghiêm chỉnh thực hiện đường lối mà Đảng đã đề ra ở cả hai miền trên tinh thần quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam quyết bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước. Với chân lý Bắc – Nam một nhà, Nhân dân hai miền Nam – Bắc luôn đoàn kết sát cánh bên nhau, ủng hộ, cổ vũ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh thực hiện mục tiêu chung là thống nhất đất nước. Bên cạnh đó, việc giương cao ngọn cờ tất thắng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã khiến cho cuộc đấu tranh của Nhân dân hai miền luôn được sự đồng tình ủng hộ to lớn của các nước XHCN anh em, trong đó đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc. 

Nhờ thực hiện tốt các điều kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra về thực hiện đồng thời hai nhiệm cụ cách mạng mà cách mạng Việt Nam đã đi đến đích cuối cùng. Chiến thắng lịch sử ngày 30/4/1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước “thỏa lòng mong đợi của Người” là minh chứng rõ nét cho điều này.

4. Giá trị, ý nghĩa lịch sử của hai nhiệm vụ chiến lược đối với đất nước giai đoạn hiện nay

Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới đang có những biến đổi khôn lường, như: dịch bệnh, thiên tai, xung đột vũ trang, đối đầu quân sự và những bất ổn trong tình hình chính trị của nhiều quốc gia thời gian gần đây… đã tạo nên những thách thức không nhỏ đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN của Đảng và Nhân dân ta. Do đó, để thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược này trong giai đoạn hiện nay, hướng tới thực hiện thành công mục tiêu “Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”32 vào năm 2045, chúng ta cần kiên định và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về những điều kiện để thực hiện thắng lợi đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam (1954 – 1975) vào thực tiễn hiện nay.

Một là, giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, bởi thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời cho đến nay đã chứng minh: Đảng chính là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Để làm được điều này, Đảng phải không ngừng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng để Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”. Chỉ khi đó, Đảng mới đủ trí tuệ đề ra chủ trương đúng đắn, đường lối sáng tạo, mới đủ sức để lãnh đạo Nhân dân thực hiện thắng lợi những chủ trương đã đề ra, biến chủ trương của Đảng thành hiện thực. Có như thế, niềm tin của Nhân dân vào Đảng mới được củng cố và tăng cường, Nhân dân mới đoàn kết khăng khít với Đảng, quyết tâm đi theo sự lãnh đạo của Đảng, đập tan mọi âm mưu phủ nhận, xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, giữ vững định hướng XHCN. 

Hai là, củng cố, tăng cường hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó đoàn kết trong Đảng là hạt nhân để thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào, đoàn kết luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định “là sức mạnh, là then chốt của thành công”33. Lịch sử dân tộc Việt Nam hàng ngàn năm qua cũng đã chứng minh: “Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”34. Chính vì vậy, các thế lực thù địch luôn tìm cách chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm làm suy yếu sức mạnh vô địch của ta. Do đó, nếu không đoàn kết, chúng ta sẽ không phát huy được trí tuệ, sức mạnh của toàn dân, điều đó cũng có nghĩa là chúng ta sẽ không thể thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược trong giai đoạn hiện nay. 

Ba là, xây dựng quân đội chính quy tinh nhuệ, làm chủ công nghệ quân sự, tăng cường tiềm lực quốc phòng, phát huy tinh thần toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc nhằm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; sẵn sáng đối phó, đáp trả với các nguy cơ xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm hoà bình, ổn định cho sự nghiệp xây dựng XHCN. Là một dân tộc yêu chuộng hoà bình, nhưng thực tế lịch sử dân tộc đã chứng minh, hoà bình chỉ có được khi chúng ta có một quân đội đủ mạnh, đủ sức răn đe và sẵn sàng đáp trả có hiệu quả đối với bất kỳ âm mưu, hành động xâm lược của các thế lực thù địch.

Bốn là, bám sát chủ nghĩa Mác – Lênin bởi đó không chỉ là ngọn đuốc dẫn đường, ngọn cờ tất thắng trong đấu tranh giành độc lập, thống nhất nước nhà mà  còn là “khoa học về thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở tất cả các nước; khoa học về xây dựng chủ nghĩa cộng sản”35. Mọi sự phủ nhận hay rời xa những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin đều có thể dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng trong công cuộc xây dựng CNXH, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh. Tuy nhiên, việc vận dụng cũng phải phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế, tránh máy móc, rập khuôn. Đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, chống lại mọi âm mưu phủ nhận, đòi xoá bỏ “cái cốt” của Đảng. 

Năm là, tăng cường đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế để không ngừng nâng cao vị thế, tiếng nói của Việt Nam trên trường quốc tế; tranh thủ hoà bình, hoà hoãn để phát triển; tranh thủ học hỏi kinh nghiệm phát triển kinh tế, quản lý đất nước của tất cả các quốc gia thành công trên thế giới, không phân biệt thể chế chính trị, mô hình phát triển, áp dụng linh hoạt vào điều kiện cụ thể của đất nước. Bởi suy cho đến cùng, xây dựng CNXH chính là “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh…”36, góp phần vào hoà bình, ổn định của khu vực và thế giới.

5. Kết luận

Tư tưởng Hồ Chí Minh về những điều kiện để thực hiện thắng lợi đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 không chỉ có giá trị trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ mà còn mang tính thời sự sâu sắc đến hôm nay. Tư tưởng của Người có ý nghĩa to lớn trong việc bảo đảm thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, đó là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Chú thích:

1, 2, 3, 5, 6, 7, 24, 27. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 723, 723, 433, 370, 331, 467, 265, 197.

4, 9, 10, 11, 14, 16, 17, 18, 20, 30, 33. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 14. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 461, 242, 467, 389, 242, 467, 308, 32 – 33, 285, 90, 186.

8, 12, 15, 19, 21, 28, 29, 31. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 271, 272, 488, 525, 120, 381, 476 – 477, 494.

13, 23, 25, 26, 35. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 11. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 116, 365, 585, 587, 96.

22, 36. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 15. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 1, 624.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr.14.

34. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 3. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 256.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Chính trị (2016). Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

2. Bộ Quốc Phòng (2021). Tổng kết Đảng lãnh đạo quân sự và quốc phòng trong cách mạng Việt Nam (1945 – 2000). H. NXB Quân đội nhân dân. 

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.  Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.

4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa cách mạng – giá trị lý luận và thực tiễn. https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/07/29/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-can-cu-dia-cach-mang-gia-tri-ly-luan-va-thuc-tien/.

TS. Đỗ Minh Tứ
Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
ThS. Lê Minh Thủy Tiên
Trường Đại học Tiền Giang

1. Đặt vấn đề Sau Hiệp định Giơnevơ, Việt Nam bước vào một giai đoạn cách mạng mới với đặc điểm nổi bật là đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Miền Bắc hoàn thành những nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; miền Nam vẫn đang bị đế quốc Mỹ và các thế lực phản động tay sai thống trị. Từ đó, đặt ra vấn đề, phải tìm con đường phát triển phù hợp với đặc điểm mới của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, đây không phải là vần đề dễ dàng vì cả lý luận chủ nghĩa Mác – Lê-nin và thực tiễn cách mạng Việt Nam cũng như thế giới chưa khi nào, chưa quốc gia nào trải qua hình thái tương tự.  Trong bối cảnh đó, với tài năng và tầm nhìn chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo l

Tin khác cùng chủ đề

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tận tụy, liêm, chính theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Xây dựng xã hội học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Quét sạch chủ nghĩa cá nhân để phòng, chống suy thoái
Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về chống “giặc nội xâm” đến cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong thời kỳ đổi mới
Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về làm gương, nêu gương và noi gương của cán bộ, đảng viên và giải pháp thực hiện
Nội dung xây dựng Đảng về đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng

Gửi bình luận của bạn