Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo là hệ thống quan điểm phong phú, toàn diện nhằm hướng đến mục tiêu đoàn kết toàn dân và giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước độc lập, thống nhất, giàu mạnh. Quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là từ năm 2016 đến nay, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo trong lãnh đạo công tác tôn giáo.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo công tác tôn giáo từ năm 2016 đến nay
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo công tác tôn giáo từ năm 2016 đến nay

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nêu rõ nhiệm vụ của công tác tôn giáo hiện nay: “Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ “sống tốt đời đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo và hoạt động theo quy định pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận”(1). Điều này thể hiện rõ quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo công tác tôn giáo trên cơ sở vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo gắn với tình hình mới hiện nay.

 

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo

Trong quá trình hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo. Được hình thành trên cơ sở quán triệt và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể ở nước ta, tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo là hệ thống quan điểm phong phú, toàn diện, sáng tạo, nhằm hướng đến mục tiêu đoàn kết toàn dân và giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước độc lập, thống nhất, giàu mạnh, được thể hiện trên một số nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, có quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể trong xem xét các vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo; tôn trọng đóng góp của những người sáng lập ra các tôn giáo.

Đứng vững trên lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu phải có quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể khi xem xét các vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo, qua đó cho thấy sự vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề tôn giáo. Vì vậy, dù khẳng định “tôn giáo là duy tâm, cộng sản là duy vật”(2), nhưng theo Người, đạo đức tôn giáo vẫn có những điểm hợp lý, phù hợp với xã hội mới. Do đó, “Cái gì tốt thì ta nên khôi phục và phát triển, còn cái gì xấu, thì ta phải bỏ đi”(3). 

Đặc biệt, với lập trường khoa học biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhìn ra mặt tích cực trong từng tín ngưỡng, tôn giáo và tôn trọng đóng góp của những người sáng lập ra các tôn giáo. Người đề cao tấm lòng bác ái cao cả của Chúa, tinh thần từ bi, hỷ xả, cứu độ chúng sinh của Phật và cho rằng mục đích cao cả của các vị ấy giống nhau ở chỗ họ đều muốn mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh tôn trọng, khâm phục tinh thần hy sinh cao cả của những người sáng lập ra Phật giáo, Kitô giáo. Người nói: “Tín đồ Phật giáo tin ở Phật; tín đồ Giatô tin ở đức Chúa Trời;... Đó là những vị chí tôn nên chúng ta tin tưởng”(4).

Thứ hai, tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các tầng lớp nhân dân.

Trải qua hơn 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, được tiếp xúc với nhiều nền văn minh, văn hóa của nhân loại, những tư tưởng tiến bộ về tôn giáo và nhất là sau khi được tiếp cận những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hình thành quan điểm tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Theo Người, sự nghiệp giải phóng dân tộc nhằm mục tiêu tối thượng là đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân, trong đó có tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Minh chứng rõ nét nhất là ngày 03/9/1945, chỉ một ngày sau khi nước nhà độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị: “Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào giáo và đồng bào lương, để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: TÍN NGƯỠNG TỰ DO và lương giáo đoàn kết”(5).

Tiếp đó, ngày 14/6/1955, Người ký quyết định ban hành Sắc lệnh số 234/SL về vấn đề tôn giáo, quy định chi tiết, cụ thể về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Đây là văn bản quy phạm pháp luật riêng về tôn giáo sớm nhất ở Việt Nam; là tiền đề để thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo dưới chế độ mới. Bên cạnh đó, không chỉ yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thật sự tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng; tránh xúc phạm đến đức tin cũng như phong tục, tập quán của đồng bào, Người còn yêu cầu: “Các cấp ủy phải thật sự quan tâm đến phần đời và phần đạo của đồng bào Công giáo”(6), vì “phần xác” có được ấm no thì “phần hồn” mới thong dong.

Thứ ba, đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết tôn giáo - dân tộc là vấn đề đặc biệt quan trọng trong củng cố khối đại đoàn kết toàn dân.

Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giữa lúc vận mệnh của đất nước trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn xác định một trong sáu nhiệm vụ cấp bách đầu tiên mà Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải thực hiện là: “Tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết”(7). Để củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết lương giáo, Người đã nhấn mạnh “mẫu số chung” của những người sáng lập tôn giáo chính là vì nhân dân: “Nay đồng bào ta đại đoàn kết, hy sinh của cải xương máu, kháng chiến đến cùng, để đánh tan thực dân phản động, để cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn, để giữ quyền thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Thế là chúng ta làm theo lòng đại từ đại bi của Đức Phật Thích Ca, kháng chiến để đưa giống nòi ra khỏi cái khổ ải nô lệ”(8). Người cũng nhấn mạnh: “phần lớn đồng bào tôn giáo… đều yêu nước kháng chiến”(9) và dù là lương hay giáo thì nhân dân ta đều tốt cả.

Thứ tư, thường xuyên đấu tranh chống các âm mưu lợi dụng vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo và xóa bỏ hủ tục, mê tín dị đoan để xây dựng xã hội mới.

Tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề nhạy cảm, thường bị các thế lực thù địch lợi dụng để lôi kéo, lừa gạt quần chúng và phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân. Vì vậy, song song với tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải thường xuyên đấu tranh chống việc các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo. Người nêu rõ: “bảo vệ tự do tín ngưỡng, nhưng kiên quyết trừng trị những kẻ đội lốt tôn giáo đã phản Chúa, phản nước”(10). Người yêu cầu phân định rõ đồng bào tôn giáo chân chính yêu nước với những kẻ “giáo gian” vì cam tâm làm tay sai cho giặc, hại nước, phản Chúa. Đồng thời, nhấn mạnh thái độ đúng đắn, phù hợp, vừa kiên quyết trong đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại cách mạng, vừa phải có thái độ khoan dung với những người dân do hoàn cảnh xô đẩy hoặc bị lừa gạt mà lầm đường lạc lối. Đặc biệt, Người luôn nhấn mạnh, quá trình xây dựng xã hội mới, xã hội chủ nghĩa cần xóa bỏ tệ mê tín dị đoan, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu để giúp nhân dân “giữ vững thuần phong mỹ tục, thực hiện đời sống mới”(11).

2. Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong lãnh đạo công tác tôn giáo từ năm 2016 đến nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo là cơ sở lý luận và phương pháp luận để Đảng, Nhà nước ta vận dụng giải quyết có hiệu quả vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong giai đoạn từ năm 2016 đến nay, việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo, Đảng đã lãnh đạo có hiệu quả công tác tôn giáo với những chủ trương, đường lối đúng đắn, khi đi vào cuộc sống đã tạo nên những chuyển biến tích cực trong đời sống tôn giáo, góp phần củng cố, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cụ thể:

Một là, nhất quán quan điểm tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân.

Đại hội ĐBTQ lần thứ XII (năm 2016) Đảng ta nhấn mạnh các vấn đề cơ bản như: Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ theo quy định của pháp luật;… Tiếp tục thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với tín ngưỡng, tôn giáo, tại kỳ họp Quốc hội khóa XIV ngày 18/11/2016, Quốc hội đã thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018). Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã thể hiện nhất quán chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo; khắc phục những bất cập của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn công tác tôn giáo. Đồng thời, phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Hai là, kiên trì thực hiện đoàn kết tôn giáo, đoàn kết toàn dân theo tinh thần “Đoàn kết Lương - Giáo”.

Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định các quan điểm trên trong công tác tôn giáo: “Thực hiện tốt mục tiêu đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người theo quy định của pháp luật”(12). Thực tế, để tạo nên sự đồng thuận, sự cố kết xã hội chống lại sự phân biệt giữa đồng bào có đạo với đồng bào không có đạo, giữa đồng bào theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, Đảng và Nhà nước ta đã sớm xác định cơ sở, nền tảng của sự đồng thuận ấy bao gồm: chính trị, kinh tế, tinh thần, tư tưởng và văn hóa tâm linh. Về mặt chính trị, là giữ vững độc lập thống nhất của Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Về kinh tế, là không ngừng nâng cao đời sống vật chất của nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo. Về tinh thần, tư tưởng, là lòng yêu nước, ý thức bảo vệ nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc. Qua đó, đã từng bước đáp ứng và giải quyết ngày càng tốt hơn hệ thống lợi ích cả trước mắt và lâu dài, cả lợi ích vật chất và tinh thần của đồng bào các tôn giáo.

Thông qua việc thực hiện đoàn kết tôn giáo, đoàn kết toàn dân theo tinh thần “Đoàn kết Lương - Giáo”, Đảng ta đã tổ chức động viên đồng bào theo đạo tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thúc đẩy những cơ sở khách quan của sự đồng thuận về kinh tế, chính trị ngày càng trở thành hiện thực. Công tác tôn giáo dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chủ động góp phần đảm bảo lợi ích vật chất, lợi ích kinh tế, chính trị của đồng bào tôn giáo, giúp đồng bào các tôn giáo phát triển kinh tế, làm giàu chính đáng, thực sự là chủ nhân của đất nước. Đảng ta xác định rõ, mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, ngày càng củng cố lòng tin của đồng bào các tôn giáo đối với sự lãnh đạo của Đảng, ủng hộ và đóng góp tích cực vào công cuộc đổi mới đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng như ngày nay.

Ba là, chú trọng phát huy giá trị đạo đức, văn hóa của các tôn giáo, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Trong công tác tôn giáo, cấp ủy, chính quyền các cấp đã chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo vận dụng và phát huy giá trị đạo đức, văn hóa tôn giáo trong việc sống hiếu thảo, trung thực, nhân ái, hướng tới điều lành, tránh xa điều ác góp phần làm giàu thêm bản sắc văn hóa dân tộc. Khơi dậy đóng góp tích cực của tôn giáo trong các hoạt động an sinh xã hội, từ thiện, nhân đạo. Thông qua các hoạt động thờ cúng và tưởng niệm đối với tổ tiên, với những người có công với nước, với dân, các hoạt động tín ngưỡng góp phần to lớn gìn giữ truyền thống, phát huy đạo lý “uống nước nhớ nguồn” là nét văn hóa tốt đẹp đã được hình thành và phát huy qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Vì vậy, khi tham gia vào các hoạt động tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tôn vinh các anh hùng dân tộc, mọi người có thể quên đi những khác biệt về lợi ích, quan niệm và thậm chí là sự thù hận trong đời sống thường nhật để trở nên lương thiện, tốt đẹp, nhân đạo, khoan dung hơn, từ đó góp phần gắn kết tình cảm, cùng cảm thông, sẻ chia giữa người với người, nâng cao ý thức cố kết cộng đồng một cách chặt chẽ hơn. Cùng với đó, coi việc phụng sự Đức Chúa, phụng sự Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng của người Công giáo; cụ thể hóa thành tinh thần “Kính Chúa, yêu nước”, “Tốt đời, đẹp đạo” để người Công giáo gắn bó với quê hương, đất nước.

Với việc chú trọng phát huy giá trị đạo đức, văn hóa của các tôn giáo đã khẳng định rõ bản chất cách mạng, khoa học và sự nhất quán trong quan điểm lãnh đạo công tác tôn giáo của Đảng ta. Đây là cơ sở cho việc giải quyết hài hòa các lợi ích, luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích bộ phận; là sự kế thừa, phát triển lên trình độ mới truyền thống nhân nghĩa, khoan dung của dân tộc nhằm xóa bỏ những định kiến, mặc cảm, hận thù trong quá khứ, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy, đoàn kết gắn bó, hướng tới tương lai tươi sáng của dân tộc trong các tầng lớp nhân dân, trong đó có đồng bào theo đạo. Từ đó, tạo sự đồng thuận, giảm thiểu những sự khác biệt giữa đồng bào không theo đạo với đồng bào theo đạo và giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau. Quan điểm này thể hiện tư duy mới đúng đắn, sâu sắc hơn của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình lãnh đạo công tác tôn giáo; góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Bốn là, chủ động ngăn chặn, xử lý các biểu hiện mê tín dị đoan, lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thực tiễn lịch sử dân tộc chứng minh, các thế lực cực đoan, thù địch luôn tìm cách chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng dưới nhiều hình thức khác nhau; tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta để lôi kéo, kích động tín đồ các tôn giáo nhằm mục tiêu chống phá Việt Nam từ bên trong, phá hoại thành quả cách mạng của dân tộc.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo, Đảng ta đã lãnh đạo làm tốt công tác tuyên truyền, vận động đồng bào có đạo, các chức sắc tôn giáo thực hiện tốt trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống “tốt đời, đẹp đạo”; phát huy vai trò của các tổ chức, lực lượng trong tiến hành công tác tôn giáo; đẩy mạnh đấu tranh chống lại các hành vi lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng để hoạt động trái với các quy định của pháp luật, nhằm kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, ảnh hưởng đến hòa bình, an ninh quốc gia. Các nghị quyết, văn kiện của Đảng ta trong nhiều nhiệm kỳ gần đây đều nhất quán khẳng định, công tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, các cấp, các ngành, các địa bàn. Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo có trách nhiệm trực tiếp, cần được củng cố và kiện toàn. Công tác quản lý nhà nước đối với các tôn giáo và đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối chế độ chỉ thành công nếu làm tốt công tác vận động quần chúng.

Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại đoàn kết tôn giáo và khối đại đoàn kết dân tộc”(13). Thường xuyên nâng cao nhận thức cho đồng bào các tôn giáo, đồng thời luôn đề cao cảnh giác những kẻ tuyên truyền lừa bịp, kích động, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; giải quyết triệt để các vấn đề vướng mắc trên cơ sở quy định của pháp luật theo tinh thần: “Xử lý hài hòa các vấn đề dân tộc, tôn giáo, bức xúc xã hội, không để xảy ra các “điểm nóng”. Kịp thời phát hiện, chủ động xử lý có hiệu quả các vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự, gây bức xúc trong dư luận, củng cố niềm tin của nhân dân”(14).

Ghi chú:

(1), (12), (13), (14) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.171, tr.272, tr.171, tr.281.

(2), (10) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.200, tr.313.

(3), (11) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, sđd, tr.557, tr.234.

(4), (5), (7) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, sđd, tr.169, tr.8, tr.8.

(6), (9) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, sđd, tr.95, tr.394.

(8) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, sđd, tr.228.

Nguyễn Đức Đỉnh - Vũ Đức Quang
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nêu rõ nhiệm vụ của công tác tôn giáo hiện nay: “Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ “sống tốt đời đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo và hoạt động theo quy định pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận”(1). Điều này thể hiện rõ quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo công tác tôn giáo trên cơ sở vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo gắn với tình hình mới hiện nay.   1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo Trong quá tr&

Tin khác cùng chủ đề

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tận tụy, liêm, chính theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Xây dựng xã hội học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Quét sạch chủ nghĩa cá nhân để phòng, chống suy thoái
Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về chống “giặc nội xâm” đến cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong thời kỳ đổi mới
Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về làm gương, nêu gương và noi gương của cán bộ, đảng viên và giải pháp thực hiện
Nội dung xây dựng Đảng về đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng

Gửi bình luận của bạn