Hơn 95 năm ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng luôn vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tự phê bình và phê bình; luôn nhận thức về những hạn chế, khuyết điểm và đề ra biện pháp sửa chữa, khắc phục, từng bước hoàn thiện nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Trong bối cảnh mới hiện nay, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng nặng nề, đòi hỏi các tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên phải không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về sửa chữa, khắc phục khuyết điểm, sai lầm của cán bộ, đảng viên trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về sửa chữa, khắc phục khuyết điểm, sai lầm của cán bộ, đảng viên trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay

1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thái độ đối với khuyết điểm cán bộ, đảng viên

Chủ nghĩa Mác - Lênin quan niệm một đảng cách mạng muốn giữ vững vai trò lãnh đạo và lãnh đạo cách mạng thành công phải biết nhận ra khuyết điểm của mình và phải sửa chữa những khuyết điểm đó. V.I.Lênin chỉ rõ: “Tất cả những đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho tới nay, đều bị tiêu vong vì tự cao, tự đại, vì không biết nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh của mình, và vì sợ sệt không dám nói lên những nhược điểm của mình. Còn chúng ta, chúng ta sẽ không bị tiêu vong, vì chúng ta không sợ nói lên những nhược điểm của chúng ta, và những nhược điểm đó, chúng ta sẽ học cách khắc phục”1. Theo V.I.Lênin hậu quả của việc thấy sai lầm mà không sửa chữa, phê bình sẽ ảnh hưởng đến sinh mạng chính trị của Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, đe dọa đến sự tồn vong của đảng. Người viết: “Hãy can đảm phơi bày những mụn nhọt của chúng ta để tiến hành chẩn đoán chúng và điều trị chúng một cách đúng đắn, không giả dối, không hình thức giả tạo”2.

Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận rõ và thấu hiểu bên, cạnh những thành công, Đảng và cán bộ, đảng viên của Đảng không tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm. Quán triệt nguyên tắc tự phê bình và phê bình, Đảng và cán bộ, đảng viên của Đảng đã nghiêm khắc kiểm điểm, nhận ra những khuyết điểm của mình để khắc phục, sửa chữa, điều đó được thể hiện trong một số nội dung sau:

Một là, mắc phải sai lầm, khuyết điểm là tất yếu, khó tránh khỏi đối với Đảng và cán bộ, đảng viên của Đảng

 Theo Hồ Chí Minh: “Trên con đường phát triển cách mạng của mình, Đảng ta, quân đội ta cũng như mỗi đồng chí của chúng ta luôn luôn có ưu điểm và không tránh khỏi có khuyết điểm. Chỉ có không ngừng đấu tranh, phê bình và tự phê bình, nhận rõ đúng, sai, phát huy cái đúng, khắc phục cái sai, mới có thể làm cho mình, cho Đảng, cho cách mạng tiến bộ mãi”3. Trong hoạt động hàng ngày, công việc hàng ngày, người đời ai cũng có khuyết điểm, có làm thì có sai lầm, có hoạt động thì khó tránh khỏi sai lầm, chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa.

Ngay sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức được rằng, một đảng hoạt động bí mật trở thành đảng cầm quyền, trong bối cảnh mới, chưa có kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng bộ máy chính quyền nhà nước sẽ khó tránh khỏi sai phạm, khuyết điểm: “Sau tám mươi năm bị áp bức, bị bóc lột, và dưới chính sách ngu dân của thực dân Pháp, các bạn và tôi, chúng ta đều chưa quen với kỹ thuật hành chính. Nhưng điều đó không làm cho chúng ta lo ngại. Chúng ta vừa làm vừa học, vừa học vừa làm. Chắc rằng chúng ta sẽ phạm khuyết đểm, nhưng chúng ta sẽ sửa chữa, chúng ta có can đảm sửa chữa khuyết điểm”4.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rõ thêm: “Đảng không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra… Đảng ta, một đảng mới từ trong xã hội cũ bước ra, nếu nó hoàn toàn không có những người xấu, việc xấu như thế mới là kỳ quái”5. Trong suốt những chặng đường của cách mạng Việt Nam, Đảng giành nhiều thắng lợi và tất nhiên khó tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm. Và như vậy, Đảng không che giấu khuyết điểm, không sợ phê bình, tự nhận khuyết điểm và tự sửa chữa, để tiến bộ. Người nhấn mạnh: “Nói về Đảng, một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”6.

Những quan điểm của Hồ Chí Minh về khuyết điểm của Đảng, của cán bộ, đảng viên mang tính biện chứng, khoa học. Điều đó yêu cầu, tự kiểm điểm, tìm ra khuyết điểm và có các biện pháp sửa chữa khuyết điểm. Mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên phải có thái độ đúng đắn, sáng suốt sửa sai khuyết điểm của mình nhằm ngăn chặn các thế lực phản động lợi dụng tô vẽ thêm khuyết điểm để phá hoại Đảng.

Hai làthái độ và cách thức khắc phục sai phạm, khuyết điểm, sửa chữa khuyết điểm

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nêu ra khuyết điểm của Đảng, của cán bộ, đảng viên, mà Người còn yêu cầu Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải có tinh thần thành khẩn nhận và quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, với những cách thức hữu hiệu để sửa chữa sai lầm, khuyết điểm đó. Người cho rằng: “Chúng ta không sợ có khuyết điểm. Chúng ta chỉ sợ không có quyết tâm sửa đổi. Chúng ta phải lấy lòng “chí công vô tư”. Chúng ta phải hiểu rõ và theo đúng chính sách của Chính phủ thì những khuyết điểm nói trên sẽ dễ sửa đổi và sự toàn dân đoàn kết sẽ càng vững vàng”7.

Hồ Chí Minh chỉ ra cách thức sửa chữa khuyết điểm: Trước hết là thái độ đúng đối với khuyết điểm; không để mặc kệ, mà phải đấu tranh để sửa chữa những khuyết điểm, không để có hại cho Đảng; không làm máy móc, ra sức đấu tranh sửa chữa những khuyết điểm, khéo dùng phê bình và tự phê bình để giúp đồng chí, đồng nghiệp sửa đổi sai lầm, khuyết điểm, giúp họ tiến bộ; đoàn kết trong Đảng bằng sự tranh đấu nội bộ, nâng cao kỷ luật và uy tín của Đảng. Người chỉ rõ: “Bọn phản động và bọn đầu cơ là địch nhân lọt vào Đảng để phá hoại. Vì vậy chúng ta phải ra sức đề phòng. Mỗi khi trong Đảng có khuyết điểm thì chúng ta phải tìm cách chớ để cho ai lợi dụng. Đó là phận sự của mỗi đảng viên chân chính”8.

Đảng là một tổ chức tiến bộ, có nhiều thành tích vẻ vang, trong Đảng có nhiều người tài, đức, phần đông là những đảng viên hăng hái nhất, thông minh nhất, yêu nước nhất và dũng cảm nhất. Do vậy, Đảng phải sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, để khuyết điểm càng ít đi, ưu điểm càng nhiều lên, Đảng ngày càng phát triển: “Trừ những bọn cố ý phá hoại, ngoài ra không ai cố ý sai lầm, sai lầm vì không hiểu, không biết. Vì vậy, đối với cán bộ bị sai lầm, ta không nên nhận rằng họ muốn như thế, mà công kích họ. Trái lại, ta phải dùng thái độ thân thiết, giúp họ tìm ra cái cớ vì sao mà sai lầm? Sai lầm như thế sẽ có hại đến công việc thế nào? Làm thế nào mà sửa chữa?”9. Người luôn nhấn mạnh cách sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, trước hết phải chú trọng dùng cách giải thích, thuyết phục, cảm hóa, dạy bảo, không nhất thiết phải xử phạt, phải phân định rõ đúng, sai,… Đối với những cán bộ, đảng viên phạm sai lầm do “hám danh trục lợi”, cố ý “phá hoại, ngoan cố, không chịu ăn năn”, không chịu sửa đổi, thì “phải nghiêm khắc”, “phải mời họ ra khỏi Đảng”, “phải có kỷ luật thích đáng”, tránh “con sâu làm rầu nồi canh”.

Theo Hồ Chí Minh, cán bộ, đảng viên cũng là con người bình thường, đã là người bình thường thì việc mắc khuyết điểm cũng là chuyện bình thường, nhất là trong giai đoạn đất nước bước vào thời kỳ mới công cuộc kiến thiết và bảo vệ chủ quyền đất nước, mọi thứ đều mới, nên việc mắc sai phạm, khuyết điểm là không tránh khỏi. Mỗi một con người như Người nói: “không phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm. Chúng ta không sợ có khuyết điểm, nhưng chỉ sợ không biết kiên quyết sửa nó đi”10. Tháng 10-1947, trong Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chỉ rõ những khuyết điểm của cán bộ, đảng viên: “Cán bộ và đảng viên làm việc không đúng, không khéo, thì còn nhiều khuyết điểm. Khuyết điểm nhiều thì thành tích ít. Khuyết điểm ít thì thành tích nhiều… Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa và giúp đồng chí mình sửa chữa”11. Các cơ quan, cán bộ, đảng viên mỗi ngày phải thiết thực kiểm điểm, phê bình khuyết điểm của mình và đồng chí mình, nếu không kiên quyết sửa chữa khuyết điểm thì giống như giấu bệnh tật trong mình, không dám uống thuốc, bệnh càng nặng thêm. Người nhấn mạnh rằng: “Khuyết điểm cũng như chứng bệnh. Phê bình cũng như uống thuốc. Sợ phê bình, cũng như có bệnh mà giấu bệnh. Không dám uống thuốc. Để đến nỗi bệnh ngày càng nặng”12. Mỗi đảng viên, cán bộ, phải thật thà xét mình, xét đồng chí mình, ai có khuyết điểm thì phải cố gắng tự sửa chữa và giúp nhau sửa chữa.

2. Đảng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong sửa chữa, khắc phục sai lầm, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên

Sửa chữa sai lầm, khuyết điểm trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (1930-1975)

Đảng Cộng sản Việt Nam được Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng. Ngay từ khi thành lập, Đảng đã đặc biệt quan tâm công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, tháng 10-1930 đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong những năm 1938-1939, Đảng tiến hành phê và tự phê bình theo tinh thần tác phẩm Tự Chỉ trích của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, chống các tư tưởng “tả khuynh”, “hữu khuynh”, đặt vai trò cá nhân lên trên Đảng, vin vào một vài khuyết điểm mà mạt sát Đảng, gây chia rẽ, bè phái trong Đảng, gieo mối hoài nghi trong quần chúng. Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, trong Đảng xuất hiện nhiều vấn đề về tư tưởng, đạo đức, cục bộ địa phương. Đảng đã mở cuộc vận động học tập, phê bình và tự phê bình theo tinh thần bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các đồng chí Bắc Bộ và Trung Bộ. Người viết: “Trong lúc dân tộc đang ở ngã tư đường, chết hay sống, mất hay còn, mỗi đồng chí và toàn cả đoàn thể (tức Đảng) phải đem tất cả tinh thần và lực lượng để đưa toàn dân quay về một hướng, nhằm vào một mục đích đánh đuổi thực dân Pháp, làm cho nước thống nhất và độc lập. Vì vậy, mỗi đồng chí và toàn cả đoàn thể phải: sáng suốt, khôn khéo, cẩn thận, kiên quyết, siêng năng, nhất trí”13. Tháng 7-1950, Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị Về cuộc vận động phê bình và tự phê bình trong Đảng nhằm “xem xét công tác, ý thức và tinh thần của đảng viên mà đặt kế hoạch giáo dục, rèn luyện Đảng tính, nâng cao trình độ chính trị, công tác của đảng viên và chấn chỉnh tổ chức cơ sở của Đảng”14. Cuộc vận động phê bình và tự phê bình đã có tác dụng nâng cao tính Đảng của đảng viên, đẩy mạnh công tác lãnh đạo của chi bộ và tạo ra nền nếp ban đầu về phê bình và tự phê bình trong Đảng. Từ sau năm 1954, miền Bắc được giải phóng, miền Nam còn tạm thời nằm dưới sự thống trị của thực dân Pháp và tay sai, quân đội ta ở miền Nam tập kết ra Bắc, Đảng và các tổ chức đoàn thể cách mạng ngừng hoạt động, Trung ương Đảng chủ trương tập trung củng cố tổ chức Đảng ở miền Bắc vững mạnh. Cùng với việc đề ra và lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, Trung ương Đảng đề ra các nhiệm vụ như củng cố chi bộ trong cải cách ruộng đất, kết nạp những quần chúng ưu tú vào Đảng. HNTƯ 8, khóa II (8-1955) chủ trương kiện toàn tổ chức và lề lối làm việc của Trung ương, đã xác định phải  trong sạch, chặt chẽ, vững mạnh, đề phòng các phần tử địa chủ, phú nông, tư sản, quan  lại  cũ  chui vào Đảng, tẩy trừ những phần  tử  gian  tế, biến chất ra khỏi Đảng, giữ vững bản  chất  của  giai cấp công nhân ở trong Đảng. Đối  với  những  phần tử phá hoại một cách nghiêm trọng trong  sự  tập  trung và thống nhất lãnh đạo của Đảng thì phải  thi  hành  kỷ luật15.

Tháng 9-1956, HNTƯ 10, khóa II đã kiểm điểm việc lãnh đạo, chỉ đạo cải cách ruộng đất, phê phán các sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, đề ra những nhiệm vụ và chính sách cụ thể sửa chữa sai lầm, phát huy thắng lợi. Hội nghị đồng ý để đồng chí Trường Chinh thôi giữ thức Tổng Bí thư. Hội nghị nhất trí bầu đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Đảng kiêm chức Tổng Bí thư của Đảng. Hội nghị cũng cử thêm 4 đồng chí Hoàng Văn Hoan16, Phạm Hùng, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị vào Bộ Chính trị. Hội nghị cử lại Ban Bí thư gồm các đồng chí Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh.

Do sai lầm trầm trọng của cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, Hội nghị quyết định kỷ luật đồng chí Hồ Viết Thắng, Thường trực Đảng tổ Ủy ban cải cách ruộng đất Trung ương, trực tiếp chỉ đạo công tác cải cách ruộng đất ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương. Đồng chí Lê Văn Lương, người phụ trách trực tiếp công tác chỉnh đốn tổ chức ra khỏi Bộ Chính trị, Ban Bí thư, xuống làm Uỷ viên dự khuyết của Ban Chấp hành Trung ương17. Từ sau năm 1975, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng tập trung phục vụ nhiệm vụ xây dựng CNXH trong phạm vi cả nước.

Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng (1975 đến nay)

Sau khi đất nước thống nhất, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mặc dù với bộn bề công việc sau khi chiến tranh kết thúc, kinh tế bị tàn phá nặng nề, cùng với khắc phục hậu quả chiến tranh, phục hồi sản xuất, xây dựng phát triển kinh tế, xã hội, Đảng cũng tiến hành song song nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Công tác kiểm tra của Đảng tiếp tục được triển khai thực hiện đồng bộ, các cấp ủy Đảng trước hết là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các ban của Đảng, Ủy ban kiểm tra các cấp tăng cường kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, kiểm tra việc thực hiện các quy định về tổ chức và sinh hoạt Đảng, kỷ luật của Đảng, qua đó đã kỷ luật và đưa ra khỏi Đảng số lượng khá lớn cán bộ, đảng viên. Cụ thể là từ năm 1975 đến năm 1995, qua công tác kiểm tra, đã thi hành kỷ luật hơn 670.000 đảng viên, trong đó khai trừ 170.000 (nếu tính cả các hình thức khác thì số đưa ra khỏi Đảng lên tới 370.000  người)18. Từ khi đất nước bước vào thời kỳ đối mới (1986) đến nay, Đảng ngày càng quan tâm, coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đại hội VI của Đảng với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật và nói rõ sự thật, đã thẳng thắn nhìn nhận những khuyết điểm, sai lầm của Đảng trong giai đoạn đầu cả nước xây dựng CNXH: “tất cả những gì đã làm được và chưa làm được cũng chứng tỏ rằng sự lãnh đạo của Đảng chưa ngang tầm những nhiệm vụ của giai đoạn mới. Đảng chưa đáp ứng được yêu cầu trong việc giải quyết nhiều vấn đề kinh tế - xã hội, trong phong cách lãnh đạo và cả trong việc rèn luyện phẩm chất cán bộ, đảng viên. Nguồn gốc sâu xa của sự không ngang tầm ấy là ở chỗ, trong nhiều năm, chúng ta đã coi nhẹ và có khuyết điểm trong công tác xây dựng đảng”19. Ở các kỳ Đại hội Đảng VII, VIII, IX, X, Đảng tiếp tục thể hiện sự quan tâm, chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đặc biệt, nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương khóa khóa XI đã ban hành Nghị quyết HNTƯ 4 (2012) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” với nhiệm vụ hàng đầu là kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Qua đó, nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương khóa XI “có 56.572 đảng viên bị xử lý kỷ luật, trong đó có 16.259 cấp ủy viên các cấp. Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã tiến hành kiểm tra 13 tổ chức đảng và 33 đảng viên. Qua kiểm tra, kết luận các tổ chức đảng, đảng viên đều có khuyết điểm, vi phạm, trong đó đề nghị thi hành kỷ luật bằng hình thức khiển trách 3 tổ chức đảng, thi hành kỷ luật 13 đảng viên (khiển trách 7, cảnh cáo 6). Ủy ban kiểm tra các địa phương, đơn vị đã kiểm tra 15.898 tổ chức đảng và 55.217 đảng viên, trong đó số tổ chức đảng có vi phạm là 10.478, phải thi hành kỷ luật 791 tổ chức đảng; số đảng viên có vi phạm là 42.757, trong đó phải thi hành kỷ luật 20.344 trường hợp”20.

Đại hội XII (2016) của Đảng cũng đã chỉ rõ tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn. Nghị quyết HNTƯ 4 khóa XII của Đảng xác định phải: “Siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; cán bộ, đảng viên vi phạm phải có hình thức xử lý kịp thời, chính xác, bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng. Cấp ủy các cấp chỉ đạo nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên; đồng thời, tiến hành rà soát, sàng lọc và đưa ngay những người không còn đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng”21. Để thực hiện 10 nhiệm vụ, giải pháp về công tác xây dựng Đảng, nhất là hai nhiệm vụ trọng tâm mà Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đề ra, Ban Chấp hành Trung ương đã cụ thể hóa tại 4 hội nghị Trung ương (4, 6, 7, 8), với việc ban hành 4 nghị quyết (các Nghị quyết số 04, 18, 19, 26-NQ/TW) và 1 quy định (Quy định số 08-QĐ/TW) để thực hiện toàn diện, đồng bộ các nội dung của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đó là: chỉnh đốn đội ngũ cán bộ, đảng viên, trong đó tập trung vào việc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”,”tự chuyển hóa” trong nội bộ. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến đầu năm 2019, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành: “45 nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và phòng, chống tham nhũng; Quốc hội đã thông qua 45 luật, pháp lệnh, 46 nghị quyết; Chính phủ đã ban hành 511 nghị định, 413 nghị quyết, 160 quyết định nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng; đã thi hành kỷ luật 53.306 đảng viên với hơn 60 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 16 Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, thậm chí xử lý đến cả Ủy viên Bộ Chính trị22.

Đại hội XIII (2021) của Đảng, Đảng khẳng định: “Phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”23. Triển khai Nghị quyết Đại hội XIII, Trung ương ban hành nhiều văn bản về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đồng bộ và toàn diện, tạo nên một chỉnh thể hệ thống các văn bản của Đảng nhằm xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh, toàn diện. Những quy định mới của Đảng được thực hiện ngay ở cấp Trung ương và các cấp địa phương với quan điểm kịp thời thay thế những cán bộ bị kỷ luật, năng lực hạn chế, uy tín giảm sút mà không chờ đến hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm. Công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng được thực hiện kịp thời, nghiêm minh, góp phần quan trọng vào xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch bộ máy Đảng ở các cấp, nhất là cấp Trung ương: “Năm 2023, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 606 tổ chức đảng, hơn 24.160 đảng viên (tăng 12% số đảng viên bị kỷ luật so với năm 2022). Trong đó, thi hành kỷ luật 459 đảng viên do tham nhũng, 8.863 đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm những điều đảng viên không được làm. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 19 cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý”24. Triển khai thực hiện nghị quyết Đại hội XIII, Đảng đã “thi hành kỷ luật 105 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 22 ủy viên, nguyên ủy viên Trung ương Đảng. Trong quý I năm 2024, các cấp ủy kiểm tra 264 tổ chức đảng và 1.864 đảng viên (có 475 cấp ủy viên), kết luận 7 tổ chức đảng và 25 đảng viên có khuyết điểm, vi phạm; xử lý kỷ luật 29 tổ chức đảng (khiển trách 17, cảnh cáo 12) và 602 đảng viên (khiển trách 374, cảnh cáo 125, cách chức 143, khai trừ ra khỏi Đảng 87 trường hợp)”25.

Trong bối cảnh hiện nay, đứng trước những cơ hội và thách thức mới, với tinh thần phê bình và tự phê bình, Đảng cần tiếp tục quán triệt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Mỗi người trong Đảng phải hiểu rằng: lợi ích của cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng. Lợi ích của mỗi bộ phận nhất định phải phục tùng lợi ích của toàn thể. Lợi ích tạm thời nhất định phải phục tùng lợi ích lâu dài. Nghĩa là phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, lên trước hết. Vì lợi ích của Đảng tức là lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc. Vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng”26.

 

Ngày nhận: 5-12-2024; ngày thẩm định đánh giá: 20-5-2025; ngày duyệt đăng: 25-5-2025

1. V.I. Lênin Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2005, T. 10, tr. 395

2. V.I. Lênin Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2005, T. 10, 8, tr. 191

3, 5, 6, 8, 9, 11, 12, 13, 26. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 5, tr 304, 303, 301, 305, 323, 273, 301, 71, 290-291

4, 7, 10. Sđd. T. 4, tr. 6, 20, 192

14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập,  Nxb CTQG, H, 2001, T.  11, tr. 435

15. Sđd. T. 15, tr 314

16. Hoàng Văn Hoan về sau phản bội

17. Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập,  Nxb CTQG, H, 2001, T. 17, tr. 557

18. Ban Chấp hành Trung ương - Tiểu ban tổng kết công tác xây dựng Đảng: Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng thời kỳ 1975-1995, Lưu hành nội bộ, Nxb CTQG, H. 1996

19. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2006, T. 47, tr. 806

20. Ủy ban Kiểm tra Trung ương: 70 năm truyền thống ngành kiểm tra Đảng (1948 - 2018), Nxb Thông tin và Truyền thông, H, 2018, tr 286

21. Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016tr. 45

22. Trích Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại phiên họp thứ 15 Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, ngày 21-1-2019

23. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H, 2021, T. I, tr. 180

24. https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/nam-2023-ky-luat-19-can-bo-dien-bo-chinh-tri-ban-bi-thu-quan-ly-658953.html.

25. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/ky-luat-602-dang-vien-thuc-hien-luan-chuyen-nhan-su-da-duoc-uy-ban-kiem-tra-trung-uong-xem-xet-119240412145726841.htm.

TS DƯƠNG MINH HUỆ
Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thái độ đối với khuyết điểm cán bộ, đảng viên Chủ nghĩa Mác - Lênin quan niệm một đảng cách mạng muốn giữ vững vai trò lãnh đạo và lãnh đạo cách mạng thành công phải biết nhận ra khuyết điểm của mình và phải sửa chữa những khuyết điểm đó. V.I.Lênin chỉ rõ: “Tất cả những đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho tới nay, đều bị tiêu vong vì tự cao, tự đại, vì không biết nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh của mình, và vì sợ sệt không dám nói lên những nhược điểm của mình. Còn chúng ta, chúng ta sẽ không bị tiêu vong, vì chúng ta không sợ nói lên những nhược điểm của chúng ta, và những nhược điểm đó,

Tin khác cùng chủ đề

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tận tụy, liêm, chính theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Xây dựng xã hội học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Quét sạch chủ nghĩa cá nhân để phòng, chống suy thoái
Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về chống “giặc nội xâm” đến cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong thời kỳ đổi mới
Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về làm gương, nêu gương và noi gương của cán bộ, đảng viên và giải pháp thực hiện
Nội dung xây dựng Đảng về đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng

Gửi bình luận của bạn