Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 là kết quả tất yếu của quá trình vận động cách mạng dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc. Xuất phát từ tình hình thực tiễn đất nước và sự bế tắc của các phong trào cứu nước đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến chủ nghĩa Mác - Lênin và khẳng định con đường cách mạng vô sản là lối thoát duy nhất cho dân tộc Việt Nam. Người nhanh chóng chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho sự ra đời của Đảng, quá trình đó đã để lại những bài học kinh nghiệm quý giá: truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo, kết hợp chặt chẽ phong trào công nhân với phong trào yêu nước, xây dựng đường lối cách mạng độc lập, sáng tạo và củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đây chính là nền tảng vững chắc cho sự ra đời và thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Một số kinh nghiệm trong quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Một số kinh nghiệm trong quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

1. Quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam đã liên tiếp nổ ra các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản chống lại thực dân Pháp. Các phong trào này diễn ra sôi nổi, thu hút đông đảo quần chúng tham gia với nhiều hình thức đấu tranh phong phú, thể hiện rõ tinh thần yêu nước và ý chí chống ngoại xâm của nhân dân. Tuy nhiên, do hạn chế về đường lối và hệ tư tưởng, các phong trào đều lần lượt thất bại. Thực tiễn này đã chứng minh sự bất lực của các khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản trong việc đáp ứng yêu cầu cấp thiết của lịch sử là giành lại độc lập dân tộc.

Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc quyết định ra đi tìm mục tiêu và con đường cứu nước, giải phóng dân tộc khác với những mục tiêu và con đường của các phong trào yêu nước đã và đang diễn ra ở trong nước. Qua trải nghiệm thực tế lịch sử từ nhiều nước trên thế giới với nhiều nghề lao động khác nhau, Người đã nhận thấy hạn chế của cách mạng dân chủ tư sản không phải là cuộc cách mạng giải phóng được gia cấp công nhân, nông dân và quần chúng lao động: ở đâu bọn đế quốc thực dân cũng tàn bạo độc ác, ở đâu người lao động cũng bị bóc lột dã man “dù mầu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”1Quá trình nghiên cứu, xem xét Cách mạng tư sản trên thế giới đã giúp Nguyễn Ái Quốc nhận thấy những cuộc cách mạng tư sản là "những cuộc cách mạng không đến nơi". Người khẳng định dứt khoát CNTB không cứu được nước, không cứu được dân.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử nhân loại, mở ra kỷ nguyên mới - thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới, đồng thời khơi nguồn cho làn sóng cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản. Sự kiện này đã để lại dấu ấn sâu sắc trong quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Người nhận thức rõ đây là một cuộc cách mạng triệt để, từ đó sớm xác định được chân lý thời đại: chỉ có con đường cách mạng XHCN và CNCS mới có thể giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức cũng như tầng lớp lao động trên toàn thế giới. Nhận thức ấy đã thôi thúc Người từ nước Anh trở lại Pháp, tích cực tham gia các hoạt động chính trị, hướng sự quan tâm đặc biệt đến Cách mạng Tháng Mười Nga và tư tưởng của V.I. Lênin.

Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc lần đầu tiên đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, được đăng trên báo L'Humanité (Nhân đạo), số ra ngày 16 và 17-7. Những luận điểm sắc sảo của Lênin đã giải đáp thấu đáo những băn khoăn lớn nhất của Người về con đường giải phóng dân tộc và sự nghiệp cứu nước. Chính lập trường cách mạng triệt để của Quốc tế Cộng sản, cùng với nền tảng lý luận vững chắc của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giúp Nguyễn Ái Quốc xác định rõ lập trường chính trị của mình. Từ đó, tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (tháng 12-1920, tổ chức tại thành phố Tua – Tour), Người đã kiên quyết ủng hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) do Lênin sáng lập và bỏ phiếu tán thành chủ trương cách mạng vô sản quốc tế.

Từ khi tìm thấy con đường cứu nước và trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc bắt tay vào truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về nước. Sau khi xác định được mục tiêu và con đường cách mạng đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục khảo sát, tìm hiểu để hoàn thiện nhận thức về đường lối cách mạng vô sản, đồng thời tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam nhằm chuẩn bị các tiền đề về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời chính đảng tiên phong của giai cấp công nhân ở Việt Nam:   

Về tư tưởng, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực vạch trần bản chất áp bức, bóc lột và nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, thực dân đối với các dân tộc thuộc địa thông qua các hoạt động thực tiễn và các bài viết, tác phẩm báo chí của mình. Người khẳng định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân, nhân dân lao động trên toàn thế giới. Trên cơ sở đó, Nguyễn Ái Quốc đã liên kết cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc, xem đây là hai mặt thống nhất của phong trào cách mạng thế giới. Người kiên trì tuyên truyền con đường cách mạng vô sản theo lý luận Mác - Lênin về Việt Nam, đồng thời xây dựng khối đoàn kết giữa những người cộng sản và nhân dân lao động ở các nước đế quốc với nhân dân thuộc địa, nhằm tạo nên sức mạnh chung trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội.

Về chính trị, Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng đúng đắn của các dân tộc bị áp bức là giải phóng giai cấp gắn liền với giải phóng dân tộc; cả 2 nhiệm vụ này chỉ có thể được thực hiện thành công dưới ngọn cờ của CNCS. Người nhấn mạnh rằng, cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không tồn tại độc lập mà là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới. Hai quá trình này không chỉ liên hệ chặt chẽ mà còn hỗ trợ lẫn nhau; tuy nhiên, cách mạng ở thuộc địa không nhất thiết phụ thuộc vào cách mạng ở chính quốc, thậm chí có thể giành thắng lợi trước, qua đó tạo động lực thúc đẩy cuộc cách mạng tại các nước tư bản phát triển. Cách mạng phải là sự nghiệp của toàn dân, trong đó liên minh công - nông là lực lượng nòng cốt. Người khẳng định đảng của giai cấp công nhân lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tàng tư tưởng có vai trò quyết định đối với sự thắng lợi của cách mạng.

Về tổ chức, sau khi xác định con đường cách mạng vô sản là hướng đi đúng đắn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã từng bước hiện thực hóa lý tưởng đó bằng một “lộ trình” rõ ràng: đi vào quần chúng, thức tỉnh, tổ chức, đoàn kết họ và đưa họ vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Sau một thời gian hoạt động tại Liên Xô để nghiên cứu, tìm hiểu thực tiễn cách mạng vô sản, đến tháng 11-1924, Người đến Quảng Châu (Trung Quốc) - nơi tập trung đông đảo người Việt yêu nước - để xúc tiến việc chuẩn bị thành lập một chính đảng cách mạng. Tháng 2-1925, Nguyễn Ái Quốc lựa chọn những thanh niên ưu tú trong tổ chức Tâm tâm xã để lập nên nhóm Cộng sản đoàn - tiền thân của tổ chức cách mạng có tính chất chuyên chính vô sản đầu tiên của Việt Nam. Đến tháng 6-1925, Người lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, với Cộng sản đoàn làm nòng cốt. Đây là một tổ chức cách mạng theo khuynh hướng tư tưởng cộng sản, có ảnh hưởng sâu rộng và mạnh mẽ nhất đối với phong trào cách mạng Việt Nam vào thời điểm này.

Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và yêu nước, tạo chuyển biến căn bản về tư tưởng cách mạng trong quần chúng. Qua chủ trương “vô sản hóa”, Hội vừa gắn bó với đời sống công - nông, vừa đào tạo đội ngũ cán bộ kiên trung, giác ngộ lý tưởng vô sản. Đồng thời, sự ra đời và phổ biến của tác phẩm “Đường Kách mệnh” do Nguyễn Ái Quốc biên soạn cũng góp phần chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của chính đảng vô sản đầu tiên ở Việt Nam.

Nhờ sự hoạt động tích cực của Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, phong trào cách mạng Việt Nam trong những năm cuối thập niên 1920 đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Cuối năm 1929, đầu năm 1930, tại Việt Nam lần lượt ra đời 3 tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng; An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Đến đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc chủ động triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Một số kinh nghiệm

Quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra trong suốt thập kỷ 20, thế kỷ XX, trong đó gắn liền với những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc. Quá trình vận động tiến tới thành lập Đảng đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý giá, đó là:

Thứ nhất, việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam sáng tạo và phù hợp

Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống lý luận chính trị, kinh tế và triết học do Mác và Ăngghen sáng lập, sau này được Lênin phát triển và vận dụng vào thực tiễn cách mạng vô sản, đặc biệt là ở nước Nga đầu thế kỷ XX. Với sự nhạy bén của mình, sau khi tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc nhanh chóng truyền bá lý luận cách mạng này vào phong trào Việt Nam, chuẩn bị điều kiện cho sự ra đời của Đảng Cộng sản. Trong bối cảnh dân trí thấp, hơn 90% dân số mù chữ và sự đàn áp khốc liệt của thực dân, việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin là vô cùng khó khăn. Từ thực tiễn đó, Người đã trăn trở tìm ra phương pháp đúng đắn, sáng tạo và hiệu quả để đưa lý luận khoa học ấy đến với nhân dân. Quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam là một tiến trình liên tục, trải qua ba giai đoạn: 1921-1923, 1923-1924 và 1924-1929, gắn liền với hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài. Mỗi giai đoạn vừa là tiền đề cho chặng tiếp theo, vừa củng cố kết quả đã đạt được. Quá trình ấy diễn ra theo phương pháp vận động: từ thức tỉnh, giác ngộ, lựa chọn con đường đến hành động cách mạng.

Mục đích của việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin của Nguyễn Ái Quốc là làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác - Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước xích dần đến lập trường của giai cấp công nhân.

Nội dung truyền bá của Nguyễn Ái Quốc là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, được cụ thể hóa phù hợp với trình độ các tầng lớp nhân dân Việt Nam. Người không truyền bá bằng các tác phẩm kinh điển mà bằng bài viết, bài giảng ngắn gọn, dễ hiểu, lời văn giản dị, nội dung thiết thực. Những bài tuyên truyền ấy tập trung vào các vấn đề như: đối tượng, tính chất, nhiệm vụ, lực lượng và phương pháp cách mạng, đoàn kết quốc tế và vai trò của Đảng cách mạng. Nhờ đó, quần chúng sớm tiếp thu lý tưởng, nuôi dưỡng niềm tin và quyết tâm đứng lên giành độc lập.

Lực lượng tuyên truyền ban đầu được Nguyễn Ái Quốc sử dụng là những trí thức yêu nước - tầng lớp có trình độ, nhiệt huyết và khát vọng tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời có khả năng truyền bá đến quần chúng. Người đã tập hợp, đào tạo họ thành đội ngũ vừa có lý luận, phẩm chất chính trị, vừa biết tuyên truyền, tổ chức quần chúng, làm cầu nối giữa lý luận cách mạng và phong trào công nhân, phong trào yêu nước. Việc thành lập “Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên” tháng 6-1925 là một tổ chức quá độ thích hợp, vừa chặt chẽ, bí mật, vừa là tổ chức quần chúng rộng rãi, góp phần đẩy nhanh quá trình chuẩn bị thành lập Đảng.

Trong quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc sử dụng linh hoạt nhiều hình thức và phương tiện: từ sách báo, tuyên truyền miệng đến đường dây liên lạc bí mật và công khai trên biển, trên bộ; người Việt, người Pháp, người Trung Quốc…, tận dụng lực lượng hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Người khéo léo kết hợp tuyên truyền nguyên lý Mác - Lênin với cổ động chính trị hằng ngày, gắn lý luận với thực tiễn, đồng thời lựa chọn phương pháp phù hợp với từng hoàn cảnh. Nguyễn Ái Quốc đã từng bước đưa lý luận cách mạng thâm nhập sâu rộng vào phong trào công nhân và yêu nước. Nhờ đó, đến cuối những năm 1920, chủ nghĩa Mác - Lênin đã trở thành nền tảng tư tưởng của 2 phong trào, gắn kết 2 phong trào này thành một, tạo tiền đề cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930.

Thứ hai, chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã thúc đẩy quá trình tiến tới thành lập Đảng Công sản Việt Nam

Quy luật chung về sự ra đời của các Đảng Cộng sản là sự kết hợp giữa CNXH khoa học với phong trào công nhân. Quy luật này do Mác và Ăngghen đặt nền móng, Lênin kế thừa và phát triển từ thực tiễn cách mạng Nga. Đảng Bôn sê vích ra đời đã phản ánh quy luật đó trong điều kiện một nước tư bản phát triển đến một trình độ nhất định. Sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân là tất yếu lịch sử: nếu không có phong trào công nhân, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ là lý tưởng tốt đẹp; ngược lại, phong trào công nhân nếu thiếu lý luận tiên phong sẽ chỉ là đấu tranh tự phát, mù quáng. Chính sự kết hợp ấy đã tạo ra chính đảng tiên phong, đưa phong trào công nhân từ tự phát lên tự giác. Khi khẳng định quy luật chung của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, V.I. Lênin đặc biệt nhấn mạnh vai trò của điều kiện lịch sử cụ thể ở mỗi nước trong bối cảnh vận động chung của thời đại. Người chỉ rõ: “… trong mỗi nước, sự kết hợp ấy lại là một sản phẩm của lịch sử, lại được thực hiện bằng những con đường đặc biệt, tùy theo điều kiện không gian và thời gian”2.

Nhân kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng (3-2-930 – 3-2-1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát quy luật hình thành Đảng Cộng sản Đông Dương là: “Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”3Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa phù hợp với quy luật chung của phong trào cộng sản quốc tế, vừa thể hiện đặc thù của một xã hội thuộc địa nửa phong kiến.

Ở Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam tuy ra đời muộn vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, nhưng mang đầy đủ bản chất của giai cấp công nhân quốc tế: đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, có hệ tư tưởng độc lập, kỷ luật cao, tinh thần cách mạng triệt để và tính quốc tế rộng lớn. Bên cạnh đó, giai cấp công nhân Việt Nam không chịu ảnh hưởng tư tưởng tư sản và chủ nghĩa cơ hội của Quốc tế II, phát triển trong lòng dân tộc có truyền thống yêu nước, trong bối cảnh quốc tế thuận lợi và có lý luận tiên phong. Đặc biệt, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân bằng phương pháp sáng tạo, hiệu quả. Vì vậy, những quan điểm lý luận mới của chủ nghĩa Mác - Lênin đã được giai cấp công nhân đón nhận, tạo nên phong trào đấu tranh tự giác của giai cấp công nhân. Quá trình kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân là sự thâm nhập vào toàn bộ phong trào, diễn ra toàn diện, nhanh chóng trở thành hệ tư tưởng lãnh đạo phong trào. Những mốc chuyển biến từ đấu tranh tự phát sang tự giác gồm: từ năm 1920 có sự chuyển mình, năm 1925 bước đầu tự giác và từ 1929 - 1930 chuyển về chất thành phong trào tự giác.

Bên cạnh đó, khi chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam trong những năm 20, thế kỳ XX, ngoài phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, còn có phong trào đấu tranh yêu nước đang bùng cháy mãnh liệt khắp nơi trong cả nước. Chính vì vậy, những quan điểm lý luận mới của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng đã dễ dàng được những người yêu nước Việt Nam đón nhận, tạo chất xúc tác thúc đẩy mạnh mẽ phong yêu nước của nhân dân.

Như vậy, có thể thấy rằng ở Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp đồng thời với phong trào công nhân và phong trào yêu nước vì 2 phong trào này có mối quan hệ gắn bó trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, cùng chung kẻ thù là đế quốc, tư sản mại bản và phong kiến tay sai, cùng mục tiêu giành độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Quá trình kết hợp này diễn ra từ từng người cộng sản (phong trào vô sản hóa) đến hoạt động của các tổ chức cách mạng như: Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và 3 tổ chức cộng sản đầu tiên.

Khi điều kiện chín muồi, đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đây là kết quả tất yếu của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử cách mạng Việt Nam. Điều này đã được Hồ Chí Minh khằng định nhân kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng (3-2-930 – 3-2-1960): “Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”3Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa phù hợp với quy luật chung của phong trào cộng sản quốc tế, vừa thể hiện đặc thù của một xã hội thuộc địa nửa phong kiến.

Thứ tư, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào đường lối cách mạng Việt Nam

Tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930, Đảng đã thông qua “Chính cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt” do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Đây được coi là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Cương lĩnh này xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để tiến tới xã hội cộng sản. Nhiệm vụ cơ bản là đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày; sớm hình thành tư tưởng phân hóa địa chủ, tập trung đánh đế quốc và tay sai, giải phóng dân tộc. Lực lượng cách mạng gồm công nhân, nông dân là chính, do giai cấp công nhân lãnh đạo, mở rộng đoàn kết toàn dân. Đồng thời, xác định cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng vô sản thế giới và sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng.

Cương lĩnh đầu tiên của Đảng tuy ngắn gọn nhưng đã xác định đúng đắn những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam phù hợp với yêu cầu thời đại. Cương lĩnh giải quyết nhuần nhuyễn vấn đề dân tộc và giai cấp trên lập trường giai cấp công nhân, xử lý đúng đắn các mối quan hệ: độc lập dân tộc và CNXH, dân tộc và dân chủ, dân tộc và quốc tế. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, nhờ giải quyết hài hòa các mối quan hệ này mà cách mạng Việt Nam liên tiếp giành được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với cương lĩnh cách mạng đúng đắn, điều đó là do Nguyễn Ái Quốc và Đảng nhận thức rõ vai trò quyết định của đường lối chiến lược đúng. Đây là điều kiện tiên quyết bảo đảm thắng lợi của cách mạng và sự tồn tại, vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời giúp cách mạng phát triển đúng hướng. Đồng thời, khi cách mạng gặp khó khăn sẽ nhanh chóng vượt qua để đi lên, Đảng không bị phân liệt tan rã, luôn giữ được sự đoàn kết trong Đảng và trong xã hội. Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy, Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”4Ngay từ khi thành lập, trong cương lĩnh đầu tiên, Đảng đã khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi cách mạng và đề ra yêu cầu xây dựng Đảng kiểu mới để lãnh đạo cách mạng thành công. Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò lãnh đạo của Đảng. Cương lĩnh đầu tiên chính là nền tảng, nếu không có nó sẽ không có cương lĩnh hành động sau này. Điều đó cho thấy, đường lối của Đảng ngay từ đầu không sao chép máy móc mà đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến.

Thứ tư, sự đoàn kết, thống nhất của Đảng là nhân tố quyết định sự đoàn kết, thống nhất của phong trào cách mạng toàn quốc

Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, diễn ra vào năm 1930, là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu sự chấm dứt của các tổ chức cộng sản, thành một tổ chức duy nhất, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này khẳng định Đảng phải là một khối thống nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đây không chỉ là một sự kiện có tính chất quyết định đối với phong trào cách mạng của đất nước, mà còn là kết quả của sự sáng suốt và tầm nhìn chiến lược của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, người đã có công lớn trong việc tổ chức và chủ trì sự kiện này. Việc hợp nhất 3 tổ chức cộng sản vào một đảng duy nhất đã thể hiện sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động trong phong trào cách mạng, giúp tạo ra một lực lượng thống nhất, vững mạnh và có khả năng lãnh đạo cách mạng.

Bên cạnh đó, sự hợp nhất này cũng phản ánh một truyền thống lâu dài của dân tộc Việt Nam đó là tinh thần đoàn kết toàn dân trong chế ngự thiên nhiên, xây dựng và bảo vệ đất nước; trong chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược. Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc Việt Nam luôn phải đối mặt với các thế lực ngoại xâm, nhưng cũng luôn tìm được sức mạnh trong sự đoàn kết toàn dân tộc. Từ cuộc kháng chiến chống các thế lực phong kiến, đến cuộc đấu tranh chống thực dân, đế quốc xâm lược, dân tộc ta luôn biết lấy sức mạnh đoàn kết làm nền tảng để vượt qua khó khăn, thử thách. Chính nhờ tinh thần đoàn kết này mà dân tộc Việt Nam mới có thể tồn tại, phát triển và vượt qua mọi thử thách để trở thành một quốc gia độc lập, tự chủ.

Với sự đoàn kết này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành lực lượng tiên phong dẫn dắt phong trào cách mạng, từ việc giành độc lập dân tộc cho đến việc xây dựng một xã hội công bằng, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định vai trò lãnh đạo của mình trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và trong việc xây dựng một xã hội mới, xã hội XHCN. Đoàn kết trong Đảng không chỉ là nền tảng vững chắc của phong trào cách mạng, mà còn là sức mạnh để xây dựng một đất nước ngày càng vững mạnh, thịnh vượng và độc lập.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, qua hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, đã mở ra một trang mới trong lịch sử dân tộc, đánh dấu một bước phát triển quan trọng của phong trào cách mạng. Đó là một dấu hiệu cho sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của các lực lượng cách mạng, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Nhờ có sự đoàn kết, thống nhất, Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giành được những thắng lợi vĩ đại, xây dựng đất nước độc lập, tự do và phát triển thịnh vượng.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Những kinh nghiệm quý báu trong quá trình vận động thành lập Đảng vẫn giữ nguyên giá trị, là nền tảng cho công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước hôm nay. Sự sáng suốt của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình vận động thành lập Đảng tiếp tục là bài học lớn cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

 

Ngày nhận bài:13-4-2025;  ngày đánh giá, thẩm định: 15-8-2025; ngày duyệt đăng: 29-9-2025

1. Hồ Chí Minh Toàn tập Nxb CTQG, H, 2011, T.1, tr. 287

2. V.I.Lênin Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, T. 4,  tr. 471

3. Hồ Chí Minh Toàn tậpNxb CTQG, H, 2011, T. 12, tr. 406

4. Hồ Chí Minh Toàn tậpNxb CTQG, H, 2011, T. 2, , tr. 289.

TS VŨ THỊ DUYÊN
Khoa Lịch sử Đảng, Học viện Báo chí và Tuyên truyền
1. Quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam đã liên tiếp nổ ra các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản chống lại thực dân Pháp. Các phong trào này diễn ra sôi nổi, thu hút đông đảo quần chúng tham gia với nhiều hình thức đấu tranh phong phú, thể hiện rõ tinh thần yêu nước và ý chí chống ngoại xâm của nhân dân. Tuy nhiên, do hạn chế về đường lối và hệ tư tưởng, các phong trào đều lần lượt thất bại. Thực tiễn này đã chứng minh sự bất lực của các khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản trong việc đáp ứng yêu cầu cấp thiết của lịch sử là giành lại độc lập dân tộc. Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc quyết định ra

Tin khác cùng chủ đề

Dấu ấn của những Tổng Bí thư gắn với những thắng lợi tiêu biểu của cách mạng Việt Nam (Kỳ 1)
Tháng 3 ở Ninh Vân!
Phát huy giá trị bộ bản đồ và tư liệu "Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý" trong công tác thông tin, tuyên truyền hiện nay
"Điện Biên Phủ - Trận đánh của thế giới"
KỶ NIỆM 49 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG TỈNH KHÁNH HÒA (2-4-1975 - 2-4-2024): TRANG SỬ HÀO HÙNG VÀ CHÓI LỌI
Nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Gửi bình luận của bạn