Trong giai đoạn 1968 - 1973, Mỹ thực hiện chính sách ngoại giao hòa hoãn với Liên Xô và Trung Quốc đã có những tác động lớn đến cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Trước tình hình quốc tế phức tạp, Đảng giữ vững đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đồng thời tiếp tục khéo léo tranh thủ giúp đỡ của bạn bè quốc tế, nhất là Liên Xô và Trung Quốc. Bài viết tập trung làm rõ nhận thức của Đảng về tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế trong giai đoạn 1968 - 1973

Nhận thức của Đảng đối với việc tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế trong những năm 1968-1973
Nhận thức của Đảng đối với việc tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế trong những năm 1968-1973

1. Những cơ sở để Đảng tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế

Một là, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng đã  kế thừa và phát huy truyền thống ngoại giao hòa hiếu, khoan dung và trọng nhân nghĩa của cha ông kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản của học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng ngoại giao nhân văn Hồ Chí Minh trong thời đại mới; lấy lẽ phải, công lý và chính nghĩa để thuyết phục lòng người (ngoại giao tâm công). Trên cơ sở quan điểm của Hồ Chí Minh: “Quan sơn muôn dặm một nhà/Bốn phương vô sản đều là anh em!”1“Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của nhân dân An Nam cả”2, Đảng đã biết gắn sức mạnh trong nước với các trào lưu cách mạng, tiến bộ chung của thế giới một cách tài tình, hiệu quả.

Hai là, Đảng đã nhận thức rõ ràng ý thức hệ và lợi ích quốc gia – dân tộc cùng chi phối mối quan hệ quốc tế. Từ đó, Đảng chủ động xử lý hài hòa hai yếu tố này trong hoạch định đường lối đối ngoại. Trong đó, Đảng luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH gắn với tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” – ưu tiên nhiệm vụ giải phóng dân tộc.

Trong bối cảnh những năm 1968 - 1973, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam đang diễn ra hết sức quyết liệt; những rạn nứt trong quan hệ giữa Liên Xô và  Trung Quốc chưa được giải quyết, Đảng xác định phải vừa giữ vững lập trường XHCN, vừa bảo đảm tranh thủ được sự ủng hộ tối đa từ các nước anh em, trọng tâm là Liên Xô, Trung Quốc; không để Việt Nam bị lôi kéo vào phe phái, đối đầu. Bằng cách đặt lợi ích độc lập, thống nhất đất nước lên hàng đầu, Đảng đã linh hoạt duy trì quan hệ tốt với Liên Xô, Trung Quốc và các lực lượng tiến bộ trên thế giới; tận dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương để đấu tranh, đồng thời đẩy mạnh hoạt động ngoại giao đa phương, kể cả với các nước tư bản, các tổ chức quốc tế để tạo thế chính trị - ngoại giao thuận lợi, hỗ trợ trực tiếp cho cuộc đàm phán tại Hội nghị Paris và cuộc chiến đấu của quân và dân Việt Nam trên khắp các chiến trường.

Chủ tịch Cuba Fidel Castro với các chiến sỹ đoàn Khe Sanh, Quân Giải phóng Trị Thiên Huế
trong chuyến th
ăm vùng giải phóng Quảng Trị, ngày 15-9-1973

2. Nhận thức của Đảng về tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế trong giai đoạn 1968 - 1973

Quan điểm quốc tế nhất quán của Đảng trong những năm 1968-1973 là “dựa vào sức mình là chính đồng thời ra sức tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, giành thắng lợi từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn”3. Nhận thức tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế xoay vào ba nội dung chính: một là, chính nghĩa của Việt Nam; hai là, thiện chí hoà bình; ba là, phân hoá kẻ thù đến cao độ.

Từ nhận thức trên, Đảng đã thực hiện chính sách cân bằng tương đối trong quan hệ với các cường quốc.

Thứ nhất, tiếp tục tranh thủ sự ủng hộ Liên Xô và Trung Quốc

Liên Xô và Trung Quốc đều đứng trong hàng ngũ các nước XHCN và cùng hỗ trợ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, nhưng trong thời gian này, hai nước tiếp tục có những rạn nứt trong quan hệ và bất đồng về quan điểm. Cả hai đều coi chiến tranh Việt Nam là cơ hội để mở rộng ảnh hưởng và khẳng định vị trí lãnh đạo trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tếNhư vậy, có thể thấy rằng sự giúp đỡ của Liên  và Trung Quốc cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam có tác động hai mặt: “một mặt, tăng sức chiến đấu cho Việt Nam, mặt khác, tăng uy tín và ảnh hưởng của bản thân các nước đó trong phong trào cách mạng thế giới”4.

Trước bối cảnh này, đòi hỏi Đảng Lao động Việt Nam phải khéo léo xử lí mối quan hệ với hai nước lớn trong phe XHCN. Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn cho rằng cần phải “củng cố và thắt chặt tình hữu nghị không gì lay chuyển nổi giữa nước ta với các nước trong phe XHCN, nhất là với Liên Xô và Trung Quốc, tăng cường quan hệ hợp tác tương trợ về mọi mặt với các nước anh em”5.

Đảng đã nhận thức khách quan rằng, được các nước đồng minh chiến lược lớn (Liên Xô – Trung Quốc) ủng hộ là thế dựa vững chắc của Việt Nam về chính trị trên phạm vi quốc tế; là hậu thuẫn giúp Việt Nam tranh thủ thêm sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới; là điều kiện thuận lợi rất lớn để Việt Nam tăng cường tiềm lực kinh tế, quốc phòng cũng như nâng cao vị thế và tạo thế có lợi trên bàn đàm phán tại Hội nghị Paris.

Các cựu binh cùng nhân dân Mỹ xuống đường biểu tình chống chiến tranh ở Việt Nam

Tháng 1-1968, HNTƯ 14 khoá III, chủ trương: “Công tác ngoại giao của ta phải nhằm tiến công địch trong lúc chúng đang lúng túng, bị động cả về quân sự và chính trị; đồng thời phải mở đường cho địch đi vào thương lượng theo hướng có lợi nhất cho ta”nhằm các mục tiêu chính: Mỹ phải rút hết quân và xoá bỏ các căn cứ quân sự của Mỹ ở miền Nam; nhân dân miền Nam tự quyết định trong vấn đề xây dựng chính quyền của mình. Hội nghị nhấn mạnh phải luôn luôn giữ vững thế chủ động trong quá trình đàm phán. Đồng thời, giữ nguyên tắc: một là, kết hợp chặt chẽ tiến công quân sự, tiến công chính trị trong nước với tiến công ngoại giao; hai là, phối hợp cuộc đấu tranh của nhân dân ba nước Đông Dương, làm cho địch không thể sử dụng được thế lực phản động ở Lào và Campuchia để chống lại phong trào cách mạng ở Việt Nam, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ mạnh mẽ và tích cực của các nước XHCN và phong trào nhân dân thế giới chống Mỹ xâm lược7.

HNTƯ 15 khóa III (8-1968) chủ trương: “Riêng đối với Liên Xô và Trung Quốc, cần chú ý những khía cạnh phức tạp mới trong quan hệ với ta khi ta đẩy mạnh cục diện vừa đánh vừa nói chuyện lên một bước mới. Ta tiếp tục yêu cầu Liên Xô phối hợp với ta, gây sức ép mạnh mẽ hơn nữa với Mỹ”8.

Trong lễ tang của Chủ tịch Hồ Chí Minh (9-1969), lãnh đạo Việt Nam gặp gỡ đại diện Liên Xô và Trung Quốc, kêu gọi hai nước chấm dứt mâu thuẫn, cùng nhau xây dựng và phát triển hệ thống XHCN.

HNTƯ 20 khóa III (từ ngày 27-1 đến ngày 11-2-1972) nhận định tình hình quốc tế về nhiều mặt có lợi cho ta, đồng thời cũng có những diễn biến phức tạp, đặc biệt “Đế quốc Mỹ đang thi thố nhiều mưu ma chước quỷ, tìm mọi cách lợi dụng những mâu thuẫn, những thiên hướng tiêu cực hoặc sai lầm trong quan hệ giữa các nước XHCN”9. Do đó, Trung ương yêu cầu: “cần nắm vững đường lối quốc tế đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta. Phát huy cao độ tinh thần tự lực tự cường, dựa vào sức mình là chính”10. Đảng chỉ thị cho các đại sứ ở nước ngoài trong quan hệ với các nhà ngoại giao Liên Xô, tuyệt đối không được làm ảnh hưởng đến Trung Quốc; trong quan hệ với các nhà ngoại giao Trung Quốc, cũng tuyệt đối không được làm gì ảnh hưởng đến Liên Xô, mà chỉ được nói những điều góp phần tăng cường đoàn kết Xô - Trung11Điều này cho thấy, quan điểm nhất quán của Đảng trong mối quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc là “phải tranh thủ sự ủng hộ chính trị và giúp đỡ vật chất to lớn hơn trong bất kể tình huống nào”12.

Đảng đánh giá đúng bản chất của quan hệ quốc tế đó là mâu thuẫn không thể điều hoà để giải quyết vấn đề ai thắng ai giữa CNXH và CNTB. Đảng chỉ rõ mối quan hệ  giữa Mỹ với Liên Xô và Trung Quốc: “Dù bề ngoài Mỹ có hoà hoãn với Liên Xô, Trung Quốc thì Mỹ vẫn coi hai nước đó cũng như toàn bộ hệ thống XHCN là kẻ thù của chúng. Đừng ai tưởng lầm rằng mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc là mặt chủ yếu trong quan hệ quốc tế hiện nay”13. Từ phân tích, đánh giá tình hình quốc tế đó, Đảng khẳng định: “Dù tình hình quốc tế có khó khăn phức tạp, nếu chúng ta làm đúng, làm khéo thì chúng ta vẫn tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của tất cả anh em”14. Đây là chủ trương hết sức đúng đắn của Đảng, tạo điều kiện để Việt Nam tiếp tục nhận được sự ủng hộ về chính trị và nguồn lực vật chất của Liên Xô và Trung Quốc. Cả hai nước tiếp tục ủng hộ đường lối, mục tiêu, lập trường và quyết tâm kháng chiến của nhân dân Việt Nam; ủng hộ các giải pháp hòa bình của Việt Nam đưa ra trên bàn đàm phán ở Hội nghị Paris. Trong cuộc gặp Lê Đức Thọ, Cố vấn đặc biệt của Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Hội nghị Paris tại Bắc Kinh ngày 12-7-1972, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai nói: “Chiến thuật đánh đàm mà các đồng chí tiến hành từ năm 1968 là đúng. Chỉ có các đồng chí mới biết khi nào là đánh đúng thời điểm đàm phán. Các đồng chí đã quyết định đúng”15.

Thứ hai, củng cố Mặt trận thống nhất ba nước Đông Dương

Trong chiến lược của Mỹ, mỗi quốc gia trên bán đảo Đông Dương có vị trí, vai trò riêng, trong đó quan trọng nhất là Việt Nam. Dù phương thức chiến tranh đối với từng nước có khác nhau, song Mỹ luôn đặt 3 nước Việt Nam, Lào và Campuchia như một chỉnh thể – một chiến trường tổng hợp - với mục tiêu cuối cùng là đặt toàn bộ bán đảo Đông Dương dưới ách thống trị của mình.

Nhận rõ âm mưu của Mỹ, Đảng kiên trì quan điểm đoàn kết chặt chẽ giữa ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia là nhiệm vụ chiến lược chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ xâm lược: “Đoàn kết hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng và giúp đỡ nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ và xây dựng đất nước theo con đường của mỗi nước”16. Trong hoạt động giúp đỡ và phối hợp chiến đấu với Lào và Campuchia, Đảng nhất quán tinh thần chủ nghĩa quốc tế vô sản chân chính, đoàn kết, bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau. Đảng yêu cầu “các cán bộ và lực lượng của ta hoạt động trên đất bạn cần có sự hiểu biết đầy đủ về đường lối, chấp hành nghiêm chỉnh các chính sách của bạn, tôn trọng phong tục tập quán của bạn cũng như chấp hành nghiêm chỉnh đường lối quốc tế, các chính sách và kỷ luật chính trị của Đảng ta”17.

Để tạo cơ sở pháp lý cho việc liên minh chiến đấu giữa ba nước, ngày 24 và 25-4-1970, Hội nghị cấp cao 3 nước Đông Dương đã được triệu tập. Hội nghị đã thông qua Lời tuyên bố, nêu rõ: “Nhân dân các nước Đông Dương có chính nghĩa, có đường lối đúng, có quyết tâm sắt đá, có khối đoàn kết không gì phá vỡ nổi, và chưa bao giờ có lực lượng hùng hậu và có sự đồng tình ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân thế giới như ngày nay”18. Hội nghị xác định liên minh 3 nước dựa trên nguyên tắc: “các bên cam kết hết lòng ủng hộ lẫn nhau, theo yêu cầu của mỗi bên và trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau”19.

Như vậy có thể thấy rằngviệc 3 nước Việt Nam - Lào - Campuchia gắn bó chặt chẽ với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung vì hoà bình, độc lập của mỗi dân tộc là yêu cầu thực tiễn đặt ra. Đoàn kết, hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng và giúp đỡ nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ và xây dựng đất nước theo con đường của mỗi nước là nguyên tắc chỉ đạo mối quan hệ giữa các nước Đông Dương theo tinh thần quốc tế vô sản chân chính và “Đảng ta kiên quyết tuân theo nguyên tắc đó”20.

Thứ ba, tranh thủ Phong trào Không liên kết

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã được cộng đồng quốc tế nhận thức đúng tính chính nghĩa và khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam, đồng thời vạch trần bản chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh xâm lược do Mỹ phát động. Từ đó, các phong trào chống chiến tranh xâm lược của Mỹ, ủng hộ Việt Nam lan rộng khắp toàn cầu, nổi bật là Phong trào Không liên kết và làn sóng phản chiến ngay trong chính nước Mỹ.

Về Phong trào Không liên kết, dù ra đời tháng 9-1961 với mục tiêu chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội nhưng phải đến tháng 7-1969 mới ra Thông cáo ủng hộ Việt Nam chống Mỹ. Đây là một quá trình Việt Nam kiên trì giải thích, tuyên truyền, gặp gỡ với lãnh đạo các nước trong Phong trào Không liên kết vì trước đó, đa số các nước trong Phong trào Không liên kết rơi vào âm mưu “chiến dịch hoà bình” của Mỹ, trong đó, Mỹ sử dụng những nước này làm trung gian để ép Việt Nam “đàm phán không điều kiện”21Với việc đẩy mạnh tuyên truyền, vận động sự ủng hộ quốc tế cùng với những thắng lợi trên chiến trường và trên bàn đàm phán tại Hội nghị Paris, các nước trong Phong trào Không liên kết đã đồng tình, ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam ngày càng mạnh mẽ. Đỉnh cao là, Hội nghị cấp cao lần thứ ba Phong trào Không Liên kết tại Lusaka (Zambia) tháng 9-1970 đã lần đầu tiên ra Nghị quyết riêng về Đông Dương. Trong đó, phê phán đích danh Mỹ và yêu cầu quân Mỹ phải “rút ngay, toàn bộ và không điều kiện”21.

Thư tư, tranh thủ dư luận quốc tế tại Paris đi đến kí kết Hiệp định hoà bình

Paris là địa điểm đàm phán được các bên Việt Nam và Mỹ thống nhất lựa chọn theo đề xuất từ phía Việt Nam. Việc lựa chọn Paris được Đảng cân nhắc kỹ lưỡng trên cơ sở bốn yếu tố thuận lợi: (1) lập trường của chính giới Pháp, (2) sự ủng hộ của lực lượng cánh tả và các phong trào tiến bộ tại Pháp, (3) ảnh hưởng của báo chí Pháp, (4) vai trò của cộng đồng người Việt Nam sinh sống tại Pháp.

Về chính giới Pháp, thời điểm khai mạc Hội nghị Paris là lúc tướng Charles de Gaulle đang làm Tổng thống Pháp. Dù là đồng minh của Mỹ, nhưng trong những năm đầu thập niên 1960, Tổng thống Pháp De Gaulle đã đề xuất giải pháp trung lập hóa Việt Nam và tích cực thực hiện chuỗi vận động ngoại giao với quan điểm: người Việt Nam có thể tự quyết định vận mệnh chính trị của mình. Mục đích là muốn nước Pháp có vị thế cao hơn trên chính trường quốc tế; đồng thời, nó cũng cho thấy nước Pháp đã rút ra những bài học lịch sử cay đắng ở Đông Dương trong quá khứ. Vì vậy, việc tranh thủ một chính khách vừa có tầm ảnh hưởng quốc tế, vừa lại là đồng minh của Mỹ là một yếu tố rất quan trọng góp phần tạo nên sự hội tụ hầu hết các lực lượng Pháp ủng hộ hòa bình ở Việt Nam.

Về lực lượng cánh tả và tiến bộ ở Pháptừ giữa thập niên 60, thế kỷ XX, những người của Đảng Cộng sản, Đảng Xã hội, kể cả những người thuộc phái De Gaulle đều thường xuyên tổ chức các cuộc mít tinh, biểu tình, hội họp để ủng hộ Việt Nam hoà bình; đặc biệt là sự ủng hộ tích cực của Đảng Cộng sản Pháp. Chính đảng này đã chuyển toàn bộ Trường Đảng Trung ương (Maurice Thorez) đi nơi khác để nhường địa điểm cho Đoàn Việt Nam sử dụng trong suốt năm năm và cử nhiều đảng viên đến phục vụ Đoàn như lái xe, nấu ăn, gác cổng,…

Ngày 1-3-1969, Đảng Cộng sản Pháp đã phát động cuộc biểu tình của 5 vạn nhân dân thủ đô Paris ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, chống đế quốc Mỹ xâm lược, do Tổng Bí thư Van-đếch Rô-sê và Ủy viên Bộ Chính trị Giắc-cơ Đuy-đô23dẫn đầu. Ngày 10-5-1970, cuộc tập hợp của hơn 20 vạn người tại rừng Vincennes (Paris) do 44 đảng phái, tổ chức và 129 nhân sĩ thuộc mọi chính kiến ở Pháp đứng ra triệu tập đòi quân Mỹ rút hoàn toàn và không điều kiện khỏi Việt Nam, Lào và Campuchia24.

Trong quá trình vận động đấu tranh ở Paris, Đoàn Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ của báo chí, truyền thông ở Pháp. Báo chí bám sát, phản ánh đều đặn, nhiệt tình, có lợi cho việc giải quyết vấn đề hòa bình ở Việt Nam. Tin tức, hình ảnh về chiến tranh Việt Nam qua các phương tiện thông tin đại chúng, hằng ngày đi vào từng gia đình. Hàng nghìn nhà báo, phóng viên, nhiếp ảnh, điện ảnh, quay phim truyền hình của rất nhiều nước trên thế giới đổ về Paris theo dõi, đưa tin, bình luận cuộc đàm phán Việt Nam - Hoa Kỳ.

Bên cạnh đó, cộng đồng người Việt Nam tại Pháp, tích cực ủng hộ giúp đỡ Đoàn đàm phán Việt Nam. Nhiều người tình nguyện làm phiên dịch, biên dịch các cuộc họp, họp báo,… tham gia mít tinh, biểu tình, hội họp ủng hộ Việt Nam

Như vậy, chính nhờ đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, dân tộc Việt Nam đã không chiến đấu một mình chống lại cuộc xâm lược của đế quốc Mỹ, mà luôn nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của nhiều quốc gia, dân tộc và đông đảo nhân dân tiến bộ trên thế giới. Kết quả ấy không chỉ mang lại nguồn lực vật chất quan trọng, mà còn là sự ủng hộ về chính trị, nguồn cổ vũ động viên tinh thần to lớn, khẳng định chính nghĩa sáng ngời trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam do Đảng lãnh đạo. Nhờ đó, thế và lực của cách mạng Việt Nam được tăng cường, góp phần làm thất bại cuộc chiến tranh lược xâm lược của đế quốc Mỹ, đồng thời cổ vũ, tiếp thêm niềm tin cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và phong trào hòa bình trên phạm vi toàn cầu.

Trong hành trình lịch sử của dân tộc, thắng lợi trước đế quốc Mỹ là một mốc son chói lọi trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, giành lại độc lập tự do cho đất nước. Trong sự nghiệp cao cả ấy, sự đúng đắn trong nhận thức sâu sắc về tranh thủ giúp đỡ của quốc tế cũng như đường lối đối ngoại thời chiến do Đảng hoạch định, triển khai đóng vai trò hết sức quan trọng, có ý nghĩa nhiều mặt.

Với tầm nhìn chiến lược, Đảng không ngừng đẩy mạnh tập hợp lực lượng cách mạng, đoàn kết quốc tế, tạo nên làn sóng ủng hộ mạnh mẽ dành cho nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, nhất là trong giai đoạn đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Paris như nhận định rất sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Mặt trận này tuy chưa xây dựng về hình thức, nhưng thực tế đã hình thành bằng hành động và tinh thần” 25; “Nhân dân Mỹ đánh từ trong ra, nhân dân ta đánh từ ngoài vào. Hai bên giáp công mạnh mẽ, thì đế quốc Mỹ nhất định sẽ thua, nhân dân Việt - Mỹ nhất định sẽ thắng”26. Qua đó, không chỉ nâng tầm vị thế quốc tế của đất nước và uy tín dân tộc, mà còn hun đúc những kinh nghiệm ngoại giao quý giá – nền tảng chiến lược cho chặng đường hội nhập toàn diện và sâu rộng của Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

 

Ngày nhận bài:11-7-2025; ngày thẩm định đánh giá: 26-10-2025; ngày duyệt đăng: 7-11-2025

1. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 10, tr. 558, 

2. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 2,  tr. 329

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2004, T. 31, tr. 100

4. Vũ Dương Ninh: Cách mạng Việt Nam trên bàn cờ quốc tế - Lịch sử và vấn đềNxb CTQG, H, 2017, tr. 107

5. Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh 2013, tr.196 -197

6, 7, 8, 9, 10, 12, 17, 20. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng về chống Mỹ, cứu nước - Tập II (1966 - 1975), CTQG, H, 2012, tr. 205, 198, 223, 655-656, 656, 226, 663, 722.

11. Nguyễn Đình Bin (Chủ biên): Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000, Nxb CTQG, H, 2002, tr. 211

15. Bộ Ngoại giao (2007), Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Paris về Việt Nam, Nxb CTQG, H, 2007, tr. 321-322

13, 14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2004, T. 35, tr. 43, 41, 41

16. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2004, T. 34, tr. 671

18, 19. Lê Đình Chỉnh: Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Campuchia (1930 - 2020), Nxb Thông tin và Truyền thông, H, 2020, tr. 243-244, 243

21, 22, 23. Bộ Ngoại giao: Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Paris về Việt Nam, Nxb CTQG, H, 2007, tr. 357, 360, 339, 340

24. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 14, tr. 638

25. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 14, tr. 640.

ThS TÔ THỊ HẠNH NHÂN
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
1. Những cơ sở để Đảng tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế Một là, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng đã  kế thừa và phát huy truyền thống ngoại giao hòa hiếu, khoan dung và trọng nhân nghĩa của cha ông kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản của học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng ngoại giao nhân văn Hồ Chí Minh trong thời đại mới; lấy lẽ phải, công lý và chính nghĩa để thuyết phục lòng người (ngoại giao tâm công). Trên cơ sở quan điểm của Hồ Chí Minh: “Quan sơn muôn dặm một nhà/Bốn phương vô sản đều là anh em!”1; “Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của nhân dân An Nam cả”2, Đảng đã biết gắn sức mạnh trong nước với c&aac

Tin khác cùng chủ đề

Dấu ấn của những Tổng Bí thư gắn với những thắng lợi tiêu biểu của cách mạng Việt Nam (Kỳ 1)
Tháng 3 ở Ninh Vân!
Phát huy giá trị bộ bản đồ và tư liệu "Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý" trong công tác thông tin, tuyên truyền hiện nay
"Điện Biên Phủ - Trận đánh của thế giới"
KỶ NIỆM 49 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG TỈNH KHÁNH HÒA (2-4-1975 - 2-4-2024): TRANG SỬ HÀO HÙNG VÀ CHÓI LỌI
Nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Gửi bình luận của bạn