Trong bối cảnh “kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc Việt Nam, việc vận dụng lý luận của V.I.Lênin về kinh tế tư bản nhà nước vẫn mang tính cấp thiết, song cần có sự sáng tạo và linh hoạt bởi bởi kinh tế nhà nước ở nước ta tiếp tục là nền tảng để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, giúp kiểm soát các ngành, lĩnh vực then chốt, bảo đảm an sinh xã hội và thực hiện các mục tiêu chiến lược quốc gia. Bài viết nghiên cứu, vận dụng lý luận về kinh tế tư bản nhà nước của V.I.Lênin trong phát triển kinh tế nhà nước, đề xuất các giải pháp vận dụng phát triển kinh tế nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Vận dụng lý luận về kinh tế tư bản nhà nước của V.I. Lênin trong phát triển kinh tế nhà nước ở nước ta
Vận dụng lý luận về kinh tế tư bản nhà nước của V.I. Lênin trong phát triển kinh tế nhà nước ở nước ta

1. Đặt vấn đề

Trong tác phẩm“Về thuế lương thực” (3/1921), V.I.Lênin đã chỉ rõ, phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới sự kiểm soát của giai cấp vô sản là một bước đi chiến lược trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện nước Nga Xô viết vừa thoát khỏi nội chiến và đang trong tình trạng kinh tế kiệt quệ, V.I.Lênin khẳng định: “… Chủ nghĩa tư bản độc quyền ‐ nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội, là nấc thang lịch sử mà giữa nó (nấc thang đó) với nấc thang được gọi là chủ nghĩa xã hội thì không có một nấc nào ở giữa cả”1. Theo ông, nhà nước vô sản cần sử dụng một cách có tính toán các yếu tố của chủ nghĩa tư bản nhà nước, biến chúng thành công cụ phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc kiểm soát các yếu tố tư bản này không chỉ là biểu hiện của quyền lực kinh tế mà còn là phương tiện để nhà nước vô sản tổ chức, điều tiết và phát triển nền kinh tế quốc dân.

Trong bối cảnh phát triển của Việt Nam theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), việc vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin về kinh tế tư bản nhà nước tiếp tục giữ vai trò quan trọng và có giá trị thực tiễn sâu sắc. Việt Nam đang bước vào một giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ với các mục tiêu chiến lược về hội nhập quốc tế, chuyển đổi số, tinh gọn bộ máy và phát triển bền vững. Trong hành trình đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò trụ cột, kiến tạo và điều tiết nền kinh tế quốc dân.

Kinh tế nhà nước không chỉ đóng vai trò ổn định vĩ mô, cung ứng dịch vụ công thiết yếu và bảo đảm an sinh xã hội mà còn là công cụ quan trọng để đầu tư vào các lĩnh vực chiến lược, như: năng lượng, viễn thông, hạ tầng số, nghiên cứu khoa học và công nghệ cao… Đây là những lĩnh vực đòi hỏi nguồn lực lớn và mức độ rủi ro cao – điều mà khu vực tư nhân khó có thể đảm đương một cách toàn diện. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp nhà nước có thể dẫn dắt quá trình hình thành chuỗi giá trị toàn cầu, mở rộng thị trường quốc tế, đồng thời giữ vai trò “lá chắn” trong các tình huống khủng hoảng hoặc biến động lớn của nền kinh tế.

Tuy nhiên, việc vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin không đồng nghĩa với sao chép máy móc mô hình cũ. Kinh tế nhà nước Việt Nam trong lịch sử đã có những thời kỳ kém hiệu quả, quan liêu và thiếu năng động. Do đó, yêu cầu đặt ra là phải đổi mới mô hình quản lý doanh nghiệp nhà nước, nâng cao năng lực cạnh tranh, áp dụng công nghệ quản trị hiện đại và tăng cường hợp tác công – tư. Kết hợp hài hòa giữa vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và động lực từ kinh tế tư nhân chính là minh chứng cho sự vận dụng sáng tạo lý luận của V.I.Lênin trong bối cảnh mới.

Kinh tế nhà nước không mâu thuẫn với kinh tế tư nhân mà bổ trợ lẫn nhau, trong đó nhà nước kiến tạo môi trường ổn định, còn tư nhân phát huy năng động sáng tạo. Tư tưởng của V.I.Lênin về kinh tế tư bản nhà nước với trọng tâm là vai trò điều tiết, định hướng và kiểm soát nền kinh tế trong thời kỳ quá độ, tiếp tục là cơ sở lý luận vững chắc cho Việt Nam khi phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Việc vận dụng sáng tạo tư tưởng đó sẽ góp phần đưa đất nước ta phát triển toàn diện, độc lập, tự chủ và bền vững trong kỷ nguyên vươn mình.

2. Bản chất lý luận về kinh tế tư bản nhà nước của V.I. Lênin

2.1. Bối cảnh ra đời lý luận kinh tế tư bản nhà nước của V.I. Lênin

Sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, dưới sự lãnh đạo của Đảng Bolshevik và V.I.Lênin, nước Nga bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chế độ XHCN đầu tiên trên thế giới. Tuy nhiên, bối cảnh kinh tế lúc bấy giờ vô cùng khó khăn, vừa trải qua Thế chiến I, kinh tế kiệt quệ, nông nghiệp suy thoái, công nghiệp ngưng trệ lại tiếp tục đối mặt với nội chiến (1918 -1920) và sự can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc. Trong giai đoạn 1918 -1921, chính quyền Xô viết áp dụng chính sách “Cộng sản thời chiến”, với các biện pháp, như: trưng thu lương thực, quốc hữu hóa công nghiệp, cấm thương mại tự do nhằm huy động nguồn lực cho quốc phòng. Tuy nhiên, chính sách này đã đẩy nền kinh tế vào khủng hoảng nghiêm trọng; nạn đói, đình công và các cuộc nổi dậy bùng phát.

Trước tình hình đó, tháng 3/1921, V.I.Lênin đã khởi xướng “Chính sách Kinh tế mới” (NEP) và viết tác phẩm “Về thuế lương thực”, trong đó nhấn mạnh việc phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước có kiểm soát như một bước đi chiến lược. NEP cho phép phục hồi một phần kinh tế thị trường dưới sự kiểm soát của nhà nước, nông dân được buôn bán, tư nhân hoạt động thương mại, nhưng nhà nước vẫn nắm các ngành then chốt. V.I.Lênin coi đây là hình thức kinh tế quá độ cần thiết để chuyển sang chủ nghĩa xã hội, đồng thời, khẳng định vai trò kinh tế nhà nước như biểu hiện quyền lực vô sản và nền tảng cho ổn định chính trị – xã hội.

2.2. Bản chất kinh tế tư bản nhà nước trong lý luận của V.I. Lênin

Theo V.I.Lênin: “… Chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ là một bước tiến so với tình hình hiện nay trong nước Cộng hòa xô‐viết của chúng ta. Nếu chẳng hạn trong khoảng nửa năm nữa, mà ở nước ta đã thiết lập được chủ nghĩa tư bản nhà nước thì đó sẽ là thắng lợi to lớn và là điều bảo đảm chắc chắn nhất rằng, qua một năm sau, chủ nghĩa xã hội nước ta sẽ được củng cố hoàn toàn và trở nên vô địch”2. Điều này có nghĩa, Chính quyền Xô viết phải vận dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước như một giai đoạn trung gian để phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước cộng hòa Xô viết là một điều kiện có lợi và cần thiết cho chủ nghĩa xã hội.

V.I.Lênin cho rằng, trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế nhà nước giữ vai trò then chốt, là công cụ quan trọng nhất để giai cấp vô sản tổ chức, điều hành và kiểm soát nền kinh tế. Theo ông, dù trong điều kiện nền kinh tế còn lạc hậu, sự phát triển không đồng đều giữa các thành phần kinh tế nhưng nhà nước vô sản có thể và cần thiết sử dụng có tính toán các yếu tố chủ nghĩa tư bản nhà nước để phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

V.I.Lênin viết: “Tất cả vấn đề – về lý luận cũng như trên thực tiễn – là tìm ra những phương pháp đúng giúp ta hướng sự phát triển không thể tránh được (đến một trình độ nào đó và trong một thời gian nào đó) của chủ nghĩa tư bản vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước; là đặt ra những điều kiện cần thiết cho công việc ấy và bảo đảm sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản nhà nước sang chủ nghĩa xã hội trong một tương lai gần”3. Điều này giải thích những yêu cầu phát triển của chính quyền Xô viết lúc này, cần tiến sang một hình thức kinh tế mới – kinh tế mà trong đó các yếu tố của chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ được sử dụng có tính toán dưới sự kiểm soát của nhà nước vô sản… Điều quan trọng là Nhà nước công nhân phải kiểm soát được các hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước và làm cho chúng phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong thời kỳ thực hiện chính sách NEP, V.I.Lênin xác định sự tồn tại đồng thời của năm loại hình kinh tế trong nền kinh tế quốc dân: (1) Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất tự nhiên; (2) Sản xuất hàng hóa nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nông dân bán lúa mì); (3) Chủ nghĩa tư bản tư nhân; (4) Chủ nghĩa tư bản nhà nước; (5) Chủ nghĩa xã hội4. Trong đó, kinh tế nhà nước (doanh nghiệp quốc doanh) và kinh tế hợp tác xã XHCN được coi là hai thành phần tiêu biểu, có thể đặt dưới sự lãnh đạo của chính quyền vô sản, từ đó từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

V.I.Lênin cũng khẳng định rằng, để kinh tế nhà nước thực sự phát huy hiệu quả, bộ máy chính quyền cần học tập và làm chủ các phương pháp tổ chức kinh tế hiện đại, kể cả của chủ nghĩa tư bản nhưng vận dụng theo định hướng XHCN. Ông nhấn mạnh: “Chúng ta không nên sợ thú nhận rằng ở đây chúng ta có thể và phải học tập nhiều nữa ở bọn tư bản”5. Điều này lý giải yêu cầu, chính quyền Xôviết cần phải học tập cách tổ chức việc buôn bán, phải biết điều hành một nền kinh tế mà ở đó nhà nước giữ vai trò chỉ huy và điều tiết, thông qua cả những hình thức kinh tế không thuần túy xã hội chủ nghĩa. Do đó, kinh tế nhà nước không chỉ là quốc doanh thuần túy mà bao gồm cả những hình thức, như: tư bản nhà nước, hợp tác xã, miễn là nhà nước nắm vai trò điều tiết, chỉ huy và kiểm soát quá trình phân phối, sản xuất và lưu thông.

Theo V.I.Lênin, cần khôi phục trao đổi hàng hóa và phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước. Trong nền kinh tế nhiều thành phần thì việc thực hiện tự do buôn bán là tất yếu. Sự hợp lý trong phát triển kinh tế là không tìm cách ngăn cấm hay chặn đứng sự phát triển của chủ nghĩa tư bản mà tìm cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước. Các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước bao gồm:

Một là, chế độ tô nhượng, là một giao kèo, một sự liên kết, một liên minh giữa chính quyền nhà nước Xôviết, nghĩa là nhà nước vô sản với chủ nghĩa tư bản nhà nước, chống lại thế lực tự phát tiểu tư hữu (có tính chất gia trưởng và tiểu tư sản). Đó là hình thức hướng sự phát triển của kinh tế tư bản vào quỹ đạo chủ nghĩa tư bản nhà nước thông qua chế độ tô nhượng. Người nhận tô nhượng là nhà tư bản, họ kinh doanh theo phương thức tư bản để lấy lợi nhuận. Họ thỏa thuận với chính quyền vô sản để thu lợi nhuận siêu ngạch. Chính quyền Xôviết có lợi: lực lượng sản xuất phát triển, sản phẩm tăng lên trong một thời gian ngắn.

Hai là, các hợp tác xã. V.I.Lênin coi hợp tác xã cũng là một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước nhưng phức tạp hơn so với chế độ tô nhượng. Các hợp tác xã là có lợi cho chính quyền Xôviết…Tô nhượng dựa trên cơ sở đại công nghiệp cơ khí hóa; chế độ hợp tác xã dựa trên cơ sở tiểu thủ công nghiệp, trên nền sản xuất thủ công mà một bộ phận thậm chí còn có tính chất gia trưởng.

Ba là, nhà nước lôi cuốn nhà tư bản với tư cách là nhà buôn. Với hình thức này, nhà nước trả cho nhà tư bản một số tiền hoa hồng để họ bán sản phẩm của nhà nước và mua sản phẩm của nhà sản xuất nhỏ.

Bốn là, nhà nước cho nhà tư bản thuê xí nghiệp, hầm mỏ. Hình thức này giống hình thức tô nhượng. Ở chỗ hợp đồng cho thuê gần giống hợp đồng tô nhượng.

Với tinh thần của NEP, với sự đa dạng các hình thức tổ chức kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất cho chế độ xã hội mới, V.I.Lênin cho rằng phải phát triển sự trao đổi bằng mọi phương tiện và làm cho bằng được, không sợ chủ nghĩa tư bản. Vì cái vi phạm đã quy định cho nó ở trong nước ta, về mặt kinh tế thì do tước quyền sở hữu của địa chủ và tư sản, về mặt chính trị do có chính quyền công nông. Đó là tinh thần của thuế lương thực, đó là ý nghĩa kinh tế của nó6.

3. Phát triển kinh tế nhà nước ở nước ta thời gian qua

3.1. Thành tựu

Trong tiến trình đổi mới và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, kinh tế nhà nước ở Việt Nam đã giữ vai trò đặc biệt quan trọng, thể hiện rõ qua chức năng điều tiết, dẫn dắt và ổn định nền kinh tế quốc dân. Là khu vực kinh tế thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước trực tiếp quản lý thông qua hệ thống doanh nghiệp và tổ chức kinh tế, kinh tế nhà nước không chỉ là một thành phần kinh tế đơn thuần, mà còn là công cụ chiến lược trong thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội. Kinh tế nhà nước đóng vai trò then chốt trong việc bảo đảm các cân đối lớn, cung cấp hàng hóa và dịch vụ công thiết yếu, thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực có tính chất chiến lược như năng lượng, viễn thông, tài chính, quốc phòng – an ninh. Đồng thời, nó còn là lực lượng vật chất quan trọng giúp thực hiện mục tiêu an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, giảm bất bình đẳng và duy trì ổn định chính trị.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tư nhân và kinh tế tập thể là động lực quan trọng trong mô hình phát triển. Quan điểm này được thể hiện rõ trong việc tập trung nguồn lực vào các doanh nghiệp chủ chốt, như: Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), Tập Đoàn Công Nghiệp – Viễn Thông Quân Đội (Viettel), Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), các ngân hàng thương mại lớn do Nhà nước nắm cổ phần chi phối, như: Vietcombank, BIDV, VietinBank…

Hiện nay, hệ thống doanh nghiệp nhà nước được cơ cấu theo bốn nhóm chính: (1) Tập đoàn kinh tế nhà nước, như: EVN, PVN, Vinachem…; (2) Tổng công ty nhà nước, như: Vietnam Airlines, ACV, Vinafood…; (3) Công ty TNHH một thành viên do Nhà nước nắm 100% vốn phục vụ công ích…; (4) Công ty cổ phần mà nhà nước giữ vốn chi phối… Xu hướng tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước nhằm tinh gọn bộ máy, tập trung vào các lĩnh vực thiết yếu, nâng cao hiệu quả hoạt động và cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.

Về phân cấp quản lý, các doanh nghiệp nhà nước được phân bổ cho các bộ quản lý ngành, như: Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và Môi trường…, bảo đảm sự giám sát, điều phối phù hợp với chức năng pháp lý và chiến lược phát triển quốc gia.

Như vậy, kinh tế nhà nước đã và đang là trụ cột vững chắc trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, góp phần quan trọng vào phát triển nhanh, bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ lợi ích quốc gia trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay.

3.2. Hạn chế

Kinh tế nhà nước là một trong những trụ cột quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, giữ vai trò chủ đạo trong nhiều lĩnh vực thiết yếu như năng lượng, tài chính, ngân hàng, hạ tầng, quốc phòng – an ninh. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển đã bộc lộ nhiều hạn chế về thể chế, cơ chế quản trị và hiệu quả hoạt động, làm giảm sút vai trò dẫn dắt và sức lan tỏa của khu vực này đối với toàn nền kinh tế. Cụ thể:

Thứ nhất, hiệu quả hoạt động chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ. Mặc dù chiếm tỷ lệ cao về GDP, nhưng doanh nghiệp nhà nước lại có năng suất lao động và tỷ suất sinh lời thấp hơn đáng kể so với khu vực tư nhân và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Một số doanh nghiệp nhà nước sử dụng vốn lớn nhưng hoạt động kém hiệu quả, thậm chí thua lỗ kéo dài, điển hình là Vinalines, Vinashin. Tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả còn phổ biến, dẫn tới lãng phí nguồn lực công.

Thứ hai, cơ chế quản lý còn chồng chéo, thiếu phân định rõ ràng vai trò nhà nước. Dù đã thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (CMSC), nhưng ranh giới giữa quản lý nhà nước và đại diện chủ sở hữu vốn vẫn chưa rõ ràng. Việc các bộ, ngành vừa làm chính sách, vừa can thiệp trực tiếp vào hoạt động của doanh nghiệp tạo nên tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, làm giảm tính tự chủ và kém linh hoạt trong điều hành.

Thứ ba, quản trị doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch và trách nhiệm giải trình. Nhiều doanh nghiệp nhà nước chưa áp dụng chuẩn mực quản trị hiện đại, còn nặng tính hành chính và hình thức. Việc công bố thông tin tài chính, chiến lược phát triển chưa đầy đủ; cơ chế bổ nhiệm lãnh đạo thiếu minh bạch, còn phụ thuộc vào quy trình hành chính hơn là năng lực thị trường, gây khó khăn trong đổi mới sáng tạo và nâng cao hiệu quả hoạt động.

Thứ tư, năng lực cạnh tranh yếu, chậm đổi mới công nghệ và mô hình kinh doanh. Trong bối cảnh hội nhập, nhiều doanh nghiệp nhà nước vẫn tụt hậu so với khu vực tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt trong các lĩnh vực như công nghiệp chế biến, logistics, dịch vụ. Thay vì đóng vai trò dẫn dắt, không ít doanh nghiệp nhà nước còn gây cản trở hoặc cạnh tranh không lành mạnh, làm méo mó cơ chế thị trường.

Thứ năm, tình trạng thất thoát, tham nhũng, lãng phí vẫn tiếp diễn. Một số vụ án lớn cùng hàng loạt dự án thua lỗ nghìn tỷ đã phản ánh những lỗ hổng trong cơ chế giám sát, kiểm toán, và kiểm soát nội bộ. Các cơ quan thanh tra, kiểm toán còn hoạt động rời rạc, thiếu tính cảnh báo sớm và ràng buộc trách nhiệm rõ ràng.

Thứ sáu, thiếu hệ thống đánh giá hiệu quả toàn diện và khách quan. Việc đánh giá hiệu quả doanh nghiệp nhà nước chủ yếu dựa vào chỉ tiêu tài chính, chưa phản ánh đầy đủ hiệu quả xã hội, đóng góp vào an sinh hay tính bền vững. Điều này gây khó khăn trong việc phân loại, tái cấu trúc, hoặc thoái vốn đối với các doanh nghiệp không còn phù hợp với định hướng phát triển.

Những hạn chế nêu trên xuất phát từ cả nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan. Cốt lõi là thể chế kinh tế nhà nước còn chậm đổi mới, thiếu đồng bộ, chưa thích ứng với kinh tế thị trường hiện đại. Tư duy bao cấp vẫn hiện diện trong nhiều doanh nghiệp nhà nước dẫn đến lệ thuộc vào nhà nước, thiếu năng động và sáng tạo. Hệ thống giám sát tuy tồn tại nhưng hiệu lực chưa cao; cơ chế bổ nhiệm lãnh đạo và đánh giá hiệu quả chưa thực sự dựa trên năng lực thị trường và hiệu quả thực tế.

Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu, vận dụng và đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn, nhưng Việt Nam vận dụng chưa đầy đủ, đúng đắn và linh hoạt, sáng tạo lý luận kinh tế tư bản nhà nước của V.I. Lênin vào thực tiễn. Chính V.I. Lênin từng nhấn mạnh vai trò quá độ và tính linh hoạt của chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới sự kiểm soát của chính quyền vô sản nhằm phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tại Việt Nam, cơ chế kiểm soát chưa chặt, việc học hỏi kinh nghiệm quản lý kinh tế hiện đại từ khu vực tư bản lại chưa sâu sắc, làm suy giảm tính hiệu quả và vai trò định hướng của khu vực kinh tế nhà nước. Thay vì là lực lượng “hỗ trợ, kiến tạo và dẫn dắt”, nhiều doanh nghiệp nhà nước lại trở thành “rào cản” đối với khu vực tư nhân và đổi mới sáng tạo. Việc chưa thấm nhuần tư tưởng sử dụng kinh tế tư bản nhà nước như một công cụ “quá độ” linh hoạt khiến khu vực này vận hành thiếu tính thị trường, giảm sức cạnh tranh và xa rời mục tiêu phát triển bền vững.

Như vậy, vấn đề đặt ra, nếu Việt Nam không sớm cải cách mạnh mẽ thể chế, đổi mới tư duy quản lý và nâng cấp mô hình quản trị theo chuẩn mực hiện đại, khu vực kinh tế nhà nước sẽ khó có thể phát huy được vai trò chủ đạo, kiến tạo, dẫn dắt và lan tỏa trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà Việt Nam đang theo đuổi.

4. Giải pháp phát triển kinh tế nhà nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Một là, hoàn thiện thể chế, tái cấu trúc chủ thể quản lý kinh tế nhà nước gắn với công nghệ hiện đại.

Việt Nam cần hoàn thiện thể chế quản lý kinh tế nhà nước theo hướng rõ ràng, minh bạch, hiện đại, với trọng tâm là tách bạch vai trò quản lý nhà nước và đại diện chủ sở hữu vốn tại doanh nghiệp. Chức năng quản lý nhà nước nên tập trung vào hoạch định chính sách và giám sát vĩ mô, trong khi chức năng đại diện vốn phải chuyên nghiệp, độc lập, do một đầu mối duy nhất đảm nhiệm. Cụ thể, Bộ Tài chính cần được phân định, phân cấp, phân quyền thực chất về vấn đề này. Cùng với đó, cần sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước, chỉ giữ lại những doanh nghiệp có vai trò chiến lược, còn lại nên chuyển đổi sang mô hình hợp tác công – tư, cổ phần hóa hoặc thoái vốn.

Trong điều kiện thực thi bộ máy chính quyền địa phương hai cấp và yêu cầu tinh gọn bộ máy, mô hình quản lý kinh tế cần chuyển từ “can thiệp hành chính” sang “hỗ trợ và điều tiết phát triển”. Chính quyền địa phương cần được trao quyền tự chủ kinh tế cao hơn, phù hợp với đặc thù của từng vùng, nhưng vẫn chịu sự giám sát từ Trung ương. Đồng thời, bộ máy quản lý kinh tế nhà nước ở địa phương phải được số hóa và chuyên nghiệp hóa. Việc nâng cao hiệu quả quản lý cũng đòi hỏi ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo trong giám sát và đánh giá doanh nghiệp nhà nước. Cần xây dựng hệ thống quản trị hiệu suất số, cơ sở dữ liệu liên thông và công cụ cảnh báo rủi ro theo thời gian thực. Đồng thời, khuyến khích doanh nghiệp nhà nước đổi mới công nghệ thông qua ưu đãi, đặt hàng nghiên cứu và hợp tác với khu vực tư nhân. Đây là điều kiện tiên quyết để khu vực kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo thực chất trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Hai là, ban hành chính sách đột phá phát triển doanh nghiệp nhà nước theo mô hình tư bản nhà nước hiện đại.

Để doanh nghiệp nhà nước phát triển theo mô hình tư bản nhà nước như tư tưởng của V.I.Lê nin, Việt Nam cần xây dựng chính sách tài chính, tín dụng và đầu tư đồng bộ, linh hoạt, định hướng thị trường. Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, điều tiết thay vì can thiệp trực tiếp.

Về tài chính, cần đổi mới cơ chế phân bổ và quản lý vốn theo hướng tập trung, có chọn lọc và gắn với hiệu quả. Vốn nhà nước nên duy trì tại các doanh nghiệp nhà nước lĩnh vực then chốt, đồng thời, thoái vốn tại các lĩnh vực không còn phù hợp. Việc cấp vốn cần dựa trên nguyên tắc “đầu tư có điều kiện”, đi kèm trách nhiệm giải trình, minh bạch lợi nhuận và đánh giá theo chuẩn quốc tế.

Về tín dụng, cần thiết kế các gói ưu đãi có mục tiêu rõ ràng, hỗ trợ doanh nghiệp nhà nước đổi mới công nghệ, chuyển đổi xanh và số. Đồng thời, doanh nghiệp nhà nước cần được khuyến khích huy động vốn từ thị trường qua phát hành trái phiếu, niêm yết cổ phiếu, xếp hạng tín nhiệm…Chính sách tín dụng cần đi đôi với kiểm soát rủi ro để tránh tình trạng ỷ lại từ các doanh nghiệp nhà nước.

Về đầu tư, cần hoàn thiện khung pháp lý khuyến khích doanh nghiệp nhà nước liên doanh, hợp tác với khu vực tư nhân và nhà đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn. Đồng thời, tách bạch vốn đầu tư công và vốn tự chủ của doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao trách nhiệm, giảm lãng phí. Những chính sách này sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp nhà nước phát triển linh hoạt, hiệu quả và đóng vai trò nòng cốt trong mô hình tư bản nhà nước hiện đại.

Ba là, đầu tư đột phá vào các công nghệ và sản phẩm chiến lược

Trước yêu cầu chuyển đổi số và tự chủ công nghệ, doanh nghiệp nhà nước cần tiên phong đầu tư vào các nhóm công nghệ chiến lược dựa trên Quyết định số 1131/QĐ-TTg ngày 12/6/2025 của Thủ tướng Chính phủ. Trong 11 nhóm công nghệ được liệt kê, có ba nhóm mà doanh nghiệp nhà nước đặc biệt cần tập trung phát triển là: trí tuệ nhân tạo (AI), vi mạch – bán dẫn (chip) và năng lượng, vật liệu mới.

Cụ thể: (1) AI giúp doanh nghiệp nhà nước đổi mới mô hình kinh doanh, tối ưu quản trị và nâng cao năng lực cạnh tranh. Việc ứng dụng AI trong tài chính, logistics, năng lượng, y tế sẽ thúc đẩy năng suất, tiết giảm chi phí và dẫn dắt đổi mới toàn hệ sinh thái; (2) Chip vi mạch là lĩnh vực chiến lược liên quan trực tiếp đến chủ quyền công nghệ và an ninh quốc gia. doanh nghiệp nhà nước cần đi đầu trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và xây dựng chuỗi cung ứng chip nội địa; (3) Năng lượng – vật liệu mới hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng xanh, chuyển dịch năng lượng và bảo đảm an ninh năng lượng. Các doanh nghiệp nhà nước trong ngành điện, dầu khí, giao thông cần ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo, lưu trữ, vật liệu nhẹ và thân thiện môi trường. Việc đầu tư vào ba lĩnh vực trên sẽ giúp doanh nghiệp nhà nước không chỉ nâng cao hiệu quả hoạt động mà còn đóng vai trò dẫn dắt đổi mới mô hình tăng trưởng, củng cố vị thế công nghệ lõi, phục vụ phát triển bền vững và bảo đảm lợi ích quốc gia trong kỷ nguyên 4.0.

Trong số 18 doanh nghiệp nhà nước hiện nay7, cần có sự phân công trọng điểm để đầu tư, phát triển ngành, lĩnh vực kinh tế, cụ thể: (1) Viettel, VNPT đầu tư AI, mạng 5G/6G, an ninh mạng – đóng vai trò chủ lực trong hạ tầng số, quốc phòng; (2) PVN, PVGas tập trung công nghệ năng lượng mới, vật liệu tiên tiến, khai thác đại dương – phục vụ chuyển dịch năng lượng; (3) EVN ưu tiên công nghệ lưu trữ năng lượng, điện tái tạo, AI – hiện đại hóa lưới điện; (4) TKV phát triển vật liệu mới, khai thác xanh, số hóa quy trình khai thác; (4) Agribank, Vinafood, Vinacafe ứng dụng AI, blockchain, IoT – nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng nông sản. Việc đầu tư có trọng điểm như vậy sẽ giúp doanh nghiệp nhà nước khẳng định vai trò chủ đạo thực chất trong nền kinh tế số và đổi mới sáng tạo trong tổng thể nền kinh tế quốc dân hiện nay.

5. Kết luận

Lý luận của V.I.Lênin về kinh tế tư bản nhà nước là một hệ thống tư tưởng khoa học, đúng đắn, có giá trị thực tiễn to lớn, đặc biệt trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin khẳng định tính tất yếu của việc kết hợp giữa nhà nước vô sản và cơ chế thị trường, nhưng nhấn mạnh vai trò điều tiết, kiểm soát và định hướng của nhà nước để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế. Những luận điểm này vẫn còn nguyên giá trị thời sự, đặc biệt khi thế giới đang đối mặt với yêu cầu tăng cường tự chủ công nghệ và quản trị phát triển bền vững.

Tại Việt Nam, việc lựa chọn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng là hoàn toàn phù hợp với điều kiện lịch sử, văn hóa dân tộc. Trong mô hình này, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo ở các lĩnh vực then chốt như năng lượng, quốc phòng – an ninh, tài chính và hạ tầng chiến lược, bảo đảm định hướng và dẫn dắt toàn bộ nền kinh tế. Dù còn tồn tại một số bất cập, song thông qua quá trình đổi mới, cổ phần hóa và hiện đại hóa quản trị, khu vực kinh tế nhà nước đã và đang phát huy hiệu quả, khẳng định vị trí là lực lượng trọng yếu của nền kinh tế quốc dân.

Trong bối cảnh Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới – dựa trên nền tảng đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và hội nhập sâu rộng, việc vận dụng sáng tạo tư tưởng V.I.Lênin về kinh tế tư bản nhà nước trở thành một lựa chọn chiến lược đúng đắn. Đặc biệt, việc tập trung đầu tư vào các nhóm công nghệ chiến lược, như: AI, vi mạch – bán dẫn, năng lượng và vật liệu mới sẽ là động lực đột phá giúp khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò tiên phong, dẫn dắt và lan tỏa phát triển cho toàn bộ nền kinh tế.

 

Chú thích:
1, 2, 3, 4, 5. V.I.Lênin toàn tập (2005). Tập 43. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 256, 247, 268, 248, 280.
6. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2021). Tài liệu bồi dưỡng kiến thức kinh điển Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí MinhTập 2. H. NXB Lý luận chính trị, tr. 127 -131.
7. Chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại 18 tập đoàn, tổng công ty từ Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp về Bộ Tài chính. https://baochinhphu.vn/chuyen-giao-quyen-dai-dien-chu-so-huu-von-nha-nuoc-tai-18-tap-doan-tcty-tu-uy-ban-quan-ly-von-nha-nuoc-tai-dn-ve-bo-tai-chinh-102250301114945477.htm.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương (2025). Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân.
2. Thủ tướng Chính phủ (2015). Quyết định số 1131/QĐ-TTg ngày 12/6/2025 ban hành Danh mục công nghệ chiến lược và sản phẩm công nghệ chiến lược.
3. Toàn văn nghị quyết về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-nghi-quyet-ve-dot-pha-phat-trien-khoa-hoc-cong-nghe-doi-moi-sang-tao-va-chuyen-doi-so-quoc-gia-119241224180048642.htm.

TS. Tạ Quang Tuấn
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

1. Đặt vấn đề Trong tác phẩm“Về thuế lương thực” (3/1921), V.I.Lênin đã chỉ rõ, phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới sự kiểm soát của giai cấp vô sản là một bước đi chiến lược trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện nước Nga Xô viết vừa thoát khỏi nội chiến và đang trong tình trạng kinh tế kiệt quệ, V.I.Lênin khẳng định: “… Chủ nghĩa tư bản độc quyền ‐ nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội, là nấc thang lịch sử mà giữa nó (nấc thang đó) với nấc thang được gọi là chủ nghĩa xã hội thì không có một nấc nào ở giữa cả”1. Theo ông, nhà nước vô sản cần sử dụng một cách có tính to&aacute

Tin khác cùng chủ đề

Sức mạnh trường tồn của Đảng là niềm tin của Nhân dân
Những thành tựu lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam 95 năm qua
Mùa xuân khơi dậy khát vọng phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới
Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng
Quan điểm phát triển văn hóa, con người trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Bảo đảm tính đảng và tính khoa học của khoa học lịch sử và khoa học chính trị trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch

Gửi bình luận của bạn