Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế ở Việt Nam: Thực trạng và một số vấn đề đặt ra khi đất nước bước vào kỷ nguyên mới
Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế ở Việt Nam: Thực trạng và một số vấn đề đặt ra khi đất nước bước vào kỷ nguyên mới

 

Sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về hội nhập quốc tế

 

Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế là chủ trương lớn của Đảng ta nhằm phát huy sức mạnh của thời đại phục vụ mục tiêu xây dựng, phát triển đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, hùng cường. Từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng và xây dựng đất nước 95 năm qua, Đảng ta từng bước hoàn thiện tư duy lý luận về hội nhập quốc tế.

 

Tại Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta cho rằng “muốn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, nước ta phải tham gia sự phân công lao động quốc tế”[1]. Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta khẳng định: “cần nhạy bén nhận thức và dự báo được những diễn biến phức tạp và thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xu hướng quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới để có những chủ trương đối ngoại phù hợp”[2]. Đến Đại hội VIII (năm 1996) khái niệm “hội nhập” mới được đề cập trong Văn kiện Đại hội, đặt ra yêu cầu: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”[3].

 

Đại hội IX (năm 2001) tiếp tục nhấn mạnh chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”[4]. Nghị quyết số 07-NQ/TW, ngày 27-11-2001, của Bộ Chính trị khóa IX, “Về hội nhập kinh tế quốc tế” cụ thể hóa quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế.

 

Đại hội X của Đảng (năm 2006) xác định “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” và nêu định hướng “đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”[5]. Đến Đại hội XI (năm 2011), sau 10 năm hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta đặt ra yêu cầu “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”[6], tức là mở rộng phạm vi, lĩnh vực và tính chất của hội nhập quốc tế, không chỉ còn giới hạn ở hội nhập kinh tế quốc tế.

 

Bộ Chính trị khóa XI ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013,  về hội nhập quốc tế, xác định mục tiêu lớn: “Hội nhập quốc tế phải nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; Giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa; Quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; Tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; Góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.

 

Nghị quyết 22-NQ/TW xác định một số quan điểm nổi bật sau: 1- Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì hòa bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; 2- Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực; gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, nâng cao sức mạnh tổng hợp và năng lực cạnh tranh quốc gia; gắn kết chặt chẽ với việc tăng cường mức độ liên kết giữa các vùng miền, khu vực trong nước; 3- Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội; hội nhập trong các lĩnh vực phải được thực hiện đồng bộ trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất nước; 4- Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh; kiên định lợi ích quốc gia, dân tộc; chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu; không tham gia các tập hợp lực lượng, các liên minh của bên này chống bên kia; 5- Nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đôi với chủ động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi.

 

Chủ trương chủ động, tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế cũng được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013. Điều 12 Hiến pháp quy định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.

 

Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 5-11-2016, “Về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”. Nghị quyết 06-NQ/TW xác định mục tiêu là: “Với mục tiêu thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, nhằm tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh tế, mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế”[7].

 

Nghị quyết 06-NQ/TW xác định 3 quan điểm chỉ đạo lớn: Một là, kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế vì lợi ích quốc gia - dân tộc là định hướng chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vận dụng sáng tạo các bài học kinh nghiệm và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, nhất là mối quan hệ giữa tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng; hai là, hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm của hội nhập quốc tế; hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế...; ba là, bảo đảm đồng bộ giữa đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Đẩy mạnh việc đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách; chủ động xử lý các vấn đề nảy sinh; giám sát chặt chẽ và quản lý hiệu quả quá trình thực hiện cam kết trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nhất là trong lĩnh vực, vấn đề liên quan đến ổn định chính trị - xã hội.

 

Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) tiếp tục khẳng định chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạng thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng[8].

 

Mới đây, Ban chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, xác định: hội nhập là động lực chiến lược để Việt Nam vững bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế [cùng với quốc phòng, an ninh] là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; hội nhập quốc tế là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị và toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; người dân và doanh nghiệp là trung tâm, chủ thể, động lực và lực lượng chủ công... Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, Nghị quyết 59 là quyết sách đột phá, đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước; một trong “Bộ tứ trụ cột” giúp đất nước cất cánh.[9]

 

Thực tiễn hội nhập quốc tế của đất nước

 

Công tác chủ động, tích cực hội nhập quốc tế được triển khai hiệu quả trên thực thế, đạt được những kết quả nổi bật, góp phần tích cực thúc đẩy phát triển, giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ Tổ quốc và nâng cao vị thế, uy tín quốc gia trong khu vực và trên trường quốc tế.

 

Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, có mạng lưới 32 đối tác chiến lược, đối tác toàn diện trở lên, trong đó có toàn bộ 5 nước thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, toàn bộ các nước G7, 17/20 nước G20[10]. Đã từng bước tham gia, đóng góp và hoạt động tích cực tại các tổ chức đa phương chủ chốt quốc tế và khu vực, như Liên hợp quốc, ASEAN, ASEM, APEC, FEALAC, Phong trào không liên kết. Việt Nam là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế lớn. Trong đó, ngày càng tích cực và chủ động đóng góp, phát huy vai trò tại tổ chức có vai trò hàng đầu trong khu vực là ASEAN và tổ chức quốc tế lớn nhất thế giới là Liên hợp quốc. Việt Nam thiết lập quan hệ kinh tế, thương mại với hơn 220 quốc gia, vùng lãnh thổ và nền kinh tế đối tác; đặc biệt, đã chủ động gia nhập và ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như EVFTA, CPTPP, RCEP đã tạo ra nhiều cơ hội lớn cho nền kinh tế quốc gia.

 

Đối ngoại quốc phòng, an ninh ngày càng được mở rộng, góp phần củng cố lòng tin chiến lược và phát triển quan hệ Việt Nam với các quốc gia, tổ chức, khu vực trên thế giới…[11] Đến nay, Bộ Quốc phòng và Bộ Công an đã cử gần 1.100 lượt quân nhân tham gia Lực lượng Gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại các khu vực có chiến tranh hay xung đột[12]. Đồng thời, tích cực gia nhập các cơ chế hợp tác cứu hộ, cứu nạn quốc tế trên cả lĩnh vực quốc phòng và an ninh[13].

 

Vai trò, vị thế của Việt Nam trong ASEAN ngày càng nâng lên kể từ khi gia nhập tổ chức khu vực này vào năm 1995; đặc biệt đã hoàn thành tốt vai trò chủ nhà Hội nghị cấp cao ASEAN (năm 1998), đảm nhận thành công vai trò Chủ tịch Ủy ban thường trực ASEAN (năm 2001), Chủ tịch ASEAN (các năm 2010, 2020). Đối với Liên hợp quốc, Việt Nam từng bước chủ động và tham gia tích cực trên nhiều lĩnh vực liên quan đến hòa bình, an ninh, giải trừ quân bị cũng như phát triển kinh tế xã hội, dân số và bảo vệ môi trường; hoàn thành tốt nhiều trọng trách tại các tổ chức quốc tế như: Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1997; Ủy viên Hội đồng Kinh tế - Xã hội (ECOSOC) nhiệm kỳ 1998 - 2000 và 2016 - 2018, Chủ tịch Cơ quan năng lượng quốc tế (IAEA) nhiệm kỳ 2013 - 2014, Hội đồng Nhân quyền 2014 - 2016, 2023 - 2025, Ủy ban Di sản và Hội đồng chấp hành Tổ chức Giáo dục - Khoa học - Văn hóa (UNESCO) nhiệm kỳ 2015 - 2019... Đặc biệt, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu hai lần là ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009 và 2020 - 2021 (trong đó lần thứ hai với số phiếu cao kỷ lục), được bạn bè quốc tế đánh giá cao.

 

Về đối ngoại Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam có quan hệ quan hệ với 253 chính đảng ở 115 quốc gia, trong đó có các đảng cộng sản cầm quyền và các đảng cầm quyền, tham chính ở các nước lớn, các nước đối tác quan trọng. Đảng ta từng bước tham gia và đóng góp tích cực vào các diễn đàn đa phương chính đảng của các đảng cộng sản, công nhân cũng như của các đảng có khuynh hướng chính trị khác, như: Cuộc gặp quốc tế các đảng cộng sản và công nhân (IMCWP), Hội thảo quốc tế các đảng cộng sản (ICS), Diễn đàn Sao Pao-lô (SPF), Hội thảo quốc tế “Các đảng chính trị và một xã hội mới”, Hội nghị quốc tế các chính đảng châu Á (ICAPP); liên tục được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội nghị quốc tế các chính đảng châu Á (ICAPP) từ năm 2004, đăng cai tổ chức thành công Cuộc họp lần thứ 19 của Ủy ban Thường trực ICAPP tháng 4/2013 và Cuộc họp lần thứ 18 của IMCWP tháng 10/2016. 

 

Trên kênh Quốc hội, Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 nước. Đặc biệt, Việt Nam đảm nhận thành công Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới 132 (IPU) năm 2015, Chủ tịch Hội đồng nghị viện ASEAN (AIPA) các năm 2002, 2010 và 2020, Hội nghị thường niên Diễn đàn Nghị viện châu Á - Thái Bình Dương (APPF) các năm 2005, 2018. 

 

Quan hệ đối ngoại nhân dân của Việt Nam cũng ngày càng mở rộng với 1.200 tổ chức nhân dân và phi chính phủ nước ngoài…. Các đoàn thể, tổ chức nhân dân của Việt Nam đã chủ động và tích cực tham gia vào các diễn đàn nhân dân quốc tế, đặc biệt là các phong trào hòa bình, tiến bộ, Diễn đàn nhân dân ASEAN (APF), Diễn đàn nhân dân Á-Âu (AEFP). 04 tổ chức nhân dân của Việt Nam đã được cấp quy chế tư vấn với Hội đồng Kinh tế - Xã hội LHQ (ECOSOC), góp phần thông tin, quảng bá về Việt Nam, đấu tranh, bảo vệ và thúc đẩy lợi ích của Việt Nam trên các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, chủ quyền biển đảo.

 

Kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam

 

Khẳng định mục tiêu, khát vọng phát triển của dân tộc, phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 10 và tại nhiều phát biểu quan trọng, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: Với thế và lực đã tích luỹ được sau 40 năm đổi mới, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, với những thời cơ, thuận lợi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chúng ta đã hội tụ đủ những điều kiện cần thiết và văn kiện Đại hội XIV phải đề ra được định hướng chiến lược, nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để giải phóng toàn bộ sức sản xuất, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, lấy nguồn lực nội sinh, nguồn lực con người là nền tảng, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là đột phá để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam.

 

Như đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã minh chứng, dưới sự lãnh đạo của Đảng từ Đổi mới đến nay, đất nước ta vừa bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, chế độ xã hội chủ nghĩa; đồng thời đã đạt được những thành tựu phát triển quan trọng. Quy mô nền kinh tế năm 2023 tăng gấp 96 lần so với năm 1986; năm 2024 đứng thứ 32 thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài... Đời sống người dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh; hoàn thành về đích sớm các mục tiêu Thiên niên kỷ… Tiềm lực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, quốc phòng, an ninh không ngừng được củng cố; quan hệ đối ngoại được mở rộng; vị thế, uy tín của đất nước không ngừng được nâng cao …[14]

 

Đồng chí Tổng Bí thư luận giải: Kỷ nguyên vươn mình hàm ý tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực, nội lực, tự tin để vượt qua thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, đạt được những thành tựu vĩ đại. Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là: Kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu.

 

Mục tiêu tổng quát của kỷ nguyên mới chính là: Phấn đấu đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy sức sáng tạo, ý chí và sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng xã hội phồn vinh, dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ cương, an toàn, bảo đảm cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân. Không ngừng nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Phấn đấu đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa XHCN Việt Nam, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Thời điểm bắt đầu Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là Đại hội XIV của Đảng.

 

Để đạt được mục tiêu phát triển đến năm 2030 và năm 2045 đòi hỏi Việt Nam phải duy trì tốc độ tăng trưởng cao, liên tục trong một thời gian dài. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng ta xác định động lực chính của tăng trưởng kinh tế là phát triển mạnh khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số[15]. Đồng thời, quán triệt quan điểm tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển bền vững và bao trùm.

 

Trong quá trình phát triển có tính lịch sử của đất nước ta qua gần 40 năm đổi mới, hội nhập quốc tế đã có những đóng góp quan trọng thể hiện trên một số khía cạnh sau: Một là, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, nâng cao vị thế quốc tế. Hai là, góp phần phát triển kinh tế xã hội, nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước. Ba là, góp phần đẩy mạnh công cuộc đổi mới, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bốn là, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường.

 

Thời gian tới, bên cạnh nhiều thuận lợi, sự phát triển của đất nước còn gặp nhiều khó khăn, thách thức như: tình hình quốc tế, khu vực diễn biến ngày càng phức tạp, khó dự báo; tác động đan xen của các thách thức an ninh phi truyền thống đan xen với ngày càng nhiều thách thức an ninh phi truyền thống... Để đạt được mục tiêu phát triển mà Đại hội XIII xác định, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, cần đẩy mạnh hội nhập quốc tế và phát huy hơn nữa những giá trị tích cực của hoạt động này.

 

Một số vấn đề đặt ra trong công tác hội nhập quốc tế của đất nước thời gian tới:

 

Thứ nhất, tăng cường và đổi mới nhận thức về “hội nhập quốc tế” trong bối cảnh thế giới, khu vực biến đổi nhanh chóng, khó lường, chịu tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đặc biệt là sự phát triển của các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán lượng tử, Internet vạn vật (IoT)..., để làm tiền đề, cơ sở cho việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Thời gian tới, cần đẩy mạnh hội nhập về khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

 

Thứ hai, xác định được chiến lược, phương thức cụ thể để có được vị trí, vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế thế giới, chính trị thế giới và nền văn minh nhân loại. Ứng phó hiệu quả với nguy cơ lệ thuộc vào thị trường bên ngoài, lệ thuộc kinh tế dẫn đến lệ thuộc về chính trị và nguy cơ xâm lăng văn hóa. Hội nhập quốc tế phải gắn với việc chuyển giao công nghệ tiên tiến phục vụ phát triển nền công nghiệp quốc gia.

 

Thứ ba, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước theo hướng đồng bộ, phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập quốc tế. Nâng cao năng lực phòng, chống, xử lý, giải quyết những tranh chấp quốc tế.

 

Thứ tư, chủ động và tích cực tham gia vào việc đổi mới, cải tổ, cải cách hay thiết lập các định chế toàn cầu và khu vực; đóng góp nhiều hơn vào xây dựng “luật chơi”, khẳng định vị thế và đóng góp quốc tế của quốc gia, coi đây là lợi ích quốc gia quan trọng.

 

Thứ năm, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chất lượng, chuyên nghiệp, có khả năng làm việc và cạnh tranh hiệu quả trong môi trường khu vực, quốc tế./.

 

TS. Lục Anh Tuấn,

Thư ký khoa học, Hội đồng Lý luận Trung ương

 

.



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1987, tr.81

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1991, tr.88

[3] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (phần I), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 690

[4] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (phần I), Sđd, tr.878

[5] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (phần II), Sđd, tr.123

[6] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (phần II), Sđd, tr.323

[8] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, 
tr.161 - 162

[9] “Phát biểu của Tổng Bí thư tại Hội nghị toàn quốc quán triệt Nghị quyết số 66-NQ/TW và Nghị quyết số 68-NQ/TW”, ngày 18/5/2025, https://nvsk.vnanet.vn/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-tai-hoi-nghi-toan-quoc-quan-triet-nghi-quyet-so-66-nq-tw-va-nghi-quyet-so-68-nq-tw-3-150152-1-170043.vna

[10] Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với các quốc gia sau: Trung Quốc (năm 2008), Nga (năm 2012), Ấn Độ (năm 2016), Hàn Quốc (năm 2022), Hoa Kỳ (năm 2023), Nhật Bản (năm 2023), Úc (năm 2024), Pháp (năm 2024) và Thái Lan (năm 2025).

[11] Nguyễn Văn Thành và Lục Anh Tuấn, “Đối ngoại quốc phòng, an ninh trong kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”, Tạp chí Công an nhân dân, số 10/2024 - kỳ I.

[12] “Sứ mệnh gìn giữ hòa bình - Cam kết mạnh mẽ, đóng góp lâu dài”, ngày 27/5/2024, https://vufo.org.vn/Su-menh-gin-giu-hoa-binh---Cam-ket-manh-me-dong-gop-lau-dai-65-104703.html?lang=vn

[13] Tôn Nữ Thị Ninh, “Thế và lực, trên những chặng đường”, ngày 10/3/2023, https://nhandan.vn/the-va-luc-tren-nhung-chang-duong-post742101.html.

[14] “Toàn văn phát biểu chính sách của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại Đại học Columbia: “Con đường của Việt Nam, quan hệ với Hoa Kỳ và tầm nhìn cho kỷ nguyên mới””, ngày 23/9/2024 (giờ địa phương), https://nvsk.vnanet.vn/toan-van-phat-bieu-chinh-sach-cua-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-tai-dai-hoc-columbia-con-duong-cua-viet-nam-quan-he-voi-hoa-ky-va-tam-nhin-cho-ky-nguyen-moi-3-150152-1-152614.vna; “Diễn văn của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, ngày 30/4/2025, https://nvsk.vnanet.vn/dien-van-cua-tong-bi-thu-to-lam-tai-le-ky-niem-50-nam-ngay-giai-phong-mien-nam-thong-nhat-dat-nuoc-3-150152-1-168958.vna

[15] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật. Hà Nội, 2021, t. I, tr. 227.

  Sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về hội nhập quốc tế   Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế là chủ trương lớn của Đảng ta nhằm phát huy sức mạnh của thời đại phục vụ mục tiêu xây dựng, phát triển đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, hùng cường. Từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng và xây dựng đất nước 95 năm qua, Đảng ta từng bước hoàn thiện tư duy lý luận về hội nhập quốc tế.   Tại Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta cho rằng “muốn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, nước ta phải tham gia sự phân công lao động quốc tế”[1]. Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta khẳng định: “cần nhạy bén nhận thức và dự báo được những diễn biến phức tạp và thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xu hướng quốc tế hóa

Tin khác cùng chủ đề

Ngoại giao Việt Nam vì sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước
Tăng cường tin cậy, hợp tác hiệu quả Việt Nam-Nhật Bản
          Thủ tướng chứng kiến lễ ký kết 26 thỏa thuận hợp tác Việt - Anh
          Thủ tướng: Đảng và Nhà nước luôn coi người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không thể tách rời
VÀI SUY NGHĨ VỀ TRƯỜNG PHÁI NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH
Việt Nam tham dự Phiên họp lần thứ 43 Hội nghị cấp Bộ trưởng của FAO

Gửi bình luận của bạn