“Quan hệ đặc biệt” Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Kaysone Phomvihane định danh trên cơ sở tổng kết thực tiễn lịch sử quan hệ giữa hai phong trào cách mạng Việt Nam và Lào hình thành vào năm 1930, khi sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam và Lào được đặt dưới sự lãnh đạo của chính Đảng vô sản1. Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, theo từng giai đoạn lịch sử, được thể hiện thông qua nhiều hình thức và nội dung quan hệ khác nhau, song, xuyên suốt về bản chất là quan hệ bắt nguồn từ lòng yêu nước nồng nàn kết hợp với chủ nghĩa quốc tế cao cả; tình đoàn kết thủy chung và niềm tin về lòng chân thành, trong sáng mà hai dân tộc Việt Nam - Lào dành cho nhau; sự giúp đỡ đến mức cao nhất giữa hai bên nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng và tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển tương lai của hai dân tộc.

Liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954) tầm cao tư duy chiến lược, tình cảm sâu nặng và bền chặt, thành quả lớn lao
Liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954) tầm cao tư duy chiến lược, tình cảm sâu nặng và bền chặt, thành quả lớn lao

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), “quan hệ đặc biệt” Việt Nam và Lào mang nội dung “Liên minh chiến đấu” - một điển hình, mẫu mực, hiếm có về sự gắn kết keo sơn, bền chặt, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc đấu tranh vì độc lập, tự do.

1. Liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam đáp ứng yêu cầu khách quan, xuất phát từ tầm cao nhận thức chiến lược của lãnh đạo cấp cao và nguyện vọng, tình cảm của nhân dân hai nước trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược

Cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc thành công, Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và Nước Lào Ítxalạ ra đời chưa được bao lâu2, đang đối diện với những khó khăn chống chất do những di họa của chế độ thuộc địa để lại, thì ngày 23-9-1945, thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài Gòn, từng bước mở rộng đánh chiếm ra khắp Nam Bộ, Nam Trung Bộ Việt Nam, sang Campuchia, Hạ Lào, rồi toàn cõi Đông Dương. Cuộc xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp đã làm cho Đông Dương trở thành một chiến trường, nhân dân hai nước Việt Nam và Lào cùng có một kẻ thù chung.

Đối đầu với họa xâm lăng, trong tình thế phải “chiến đấu trong vòng vây” của quân xâm lược và các thế lực thù địch đủ mọi sắc cờ, lại chưa được quốc tế công nhận hay thiết lập quan hệ ngoại giao và hỗ trợ, nhân dân mỗi nước Việt Nam và Lào nêu cao ý chí tự lực, tự cường, đồng thời, phát huy sức mạnh từ mối quan hệ của phong trào cách mạng hai nước đang được đặt dưới sự lãnh đạo chung của Đảng Cộng sản Đông Dương để bảo vệ đất nước. Thắng lợi của cuộc đấu tranh giành độc lập ở Việt Nam và Lào, yêu cầu cuộc kháng chiến do nhân dân hai nước cùng tiến hành đã nâng quan hệ của hai phong trào cách mạng từ đoàn kết, tương trợ theo tinh thần quốc tế lên tầm vóc và mang nội dung mới: liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung của hai quốc gia độc lập, có chủ quyền.

Ngay sau khi nước Lào giành độc lập, trước sự lăm le quay trở lại của thực dân Pháp, “Hội Việt kiều cứu quốc” ở Viêng Chăn đã tích cực tham gia chuẩn bị chống quân xâm lược. Tháng 9-1945,  “Hội Việt kiều cứu quốc” và tổ chức Lào Ítxalạ3 đã thành lập đội quân chiến đấu chung lấy tên là “Liên quân Lào - Việt”. Sau đó, các Ủy ban phòng thủ chung Lào - Việt được thiết lập tại nhiều địa phương ở Lào, phát huy vai trò trong những trận chiến đấu đầu tiên chống quân xâm lược Pháp trên đất Lào. Xuất phát từ tầm nhìn chiến lược về việc cần phải tăng cường đoàn kết và thiết lập liên minh chiến đấu nhân dân hai nước Việt Nam và Lào, sau khi Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời Hoàng Thân Xuphanuvông đến Hà Nội và tiếp Hoàng thân vào ngày 4-9-1945. Cuộc gặp gỡ đã hình thành những tư duy đầu tiên về thiết lập minh chiến đấu giữa hai dân tộc. Tháng 10-1945, Hoàng thân Xuphanuvông tuyên bố: “Lào và Việt Nam cùng chung một nguyện vọng duy nhất là có nền độc lập dân tộc và quyền dân chủ thực sự, cùng chung kẻ thù là thực dân Pháp muốn trở lại thống trị hai nước chúng ta. Do đó, nhân dân Lào và nhân dân Việt Nam phải đoàn kết nhau lại tiếp tục chiến đấu”4. Sau khi thành lập, Chính phủ lâm thời Lào chủ trương: “Nhân dân Lào thân thiện với nhân dân Việt Nam và quyết cùng nhân dân Việt Nam đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi Đông Dương”5

Ngày 14-10-1945, chỉ hai ngày sau khi Chính phủ lâm thời Lào Ítxalạ ra mắt nhân dân, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa là Chính phủ đầu tiên trên thế giới chính thức công nhận và cử phái viên đến hội đàm với Chính phủ Lào. Tiếp đó, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa và Chính phủ Lào Ítxalạ đã ký kết “Hiệp ước tương trợ Lào - Việt” (ngày 16-10-1945) và “Hiệp ước tổ chức Liên quân Lào - Việt”  (ngày 30-10-1945)6, nhằm giúp đỡ nhau về mọi mặt trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập. Hai văn kiện trên là những văn kiện ngoại giao và quân sự chính thức đầu tiên giữa hai quốc gia độc lập, đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho sự hợp tác và liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung. Cuối tháng 10-1945, Chính phủ lâm thời Lào thiết lập Ủy ban Ngoại vụ, cơ quan ngoại giao đầu tiên của Lào, tại Việt Nam7.

Ngày 25-11-1945, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị kháng chiến kiến quốc, nêu rõ cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng, kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương là thực dân Pháp xâm lược. Với tư duy Đông Dương là một chiến trường, Chỉ thị nêu rõ: cần phải “Thống nhất mặt trận Việt - Miên - Lào chống Pháp xâm lược. Kiên quyết giành độc lập - tự do - hạnh phúc dân tộc”. Chỉ thị nêu nhiệm vụ chiến thuật ở các khu vực; đối với Lào phải “tăng gia công việc võ trang tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân ở thôn quê, làm cho Mặt trận kháng Pháp của Lào - Việt lan rộng và chiến tranh du kích nảy nở ở thôn quê đặng bao vây lại quân Pháp ở nơi sào huyệt của chúng và quét sạch chúng khỏi đất Lào”8. Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc là văn kiện lãnh đạo đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương định hướng, định hình về quan hệ hai nước Việt Nam và Lào trong tình hình mới, là dấu mốc chính thức xác lập liên minh chiến đấu giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Lào trên cả phương diện lý luận, tư tưởng, quan điểm chỉ đạo thực tiễn, phương pháp tiến hành, tổ chức thực hiện.

Từ dấu mốc này, chủ trương xây dựng và tăng cường liên minh chiến đấu hai nước Việt Nam và Lào được lãnh đạo và nhân dân hai nước không ngừng bổ sung và phát triển với những nguyên tắc, cơ chế và phân công trách nhiệm ngày càng cụ thể hơn. Năm 1946, trong lần gặp gỡ đầu tiên với đồng chí Kaysone Phomvihane (lúc này là thành viên Ban liên lạc Lào - Việt ở Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “người Việt Nam và người Lào tất yếu phải đoàn kết chống thực dân Pháp để cứu nước”9. Các hội nghị, các chỉ thị quan trọng của Đảng Cộng sản Đông Dương, như: Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ năm (8-1948), Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ sáu Đảng Cộng sản Đông Dương (1-1949), Hội nghị quán triệt Đề cương cách mạng Lào - Miên (2- 1949), Hội nghị cán bộ toàn quốc lần thứ ba Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Việt Bắc (2-1950)... luôn khẳng định “Đông Dương là một đơn vị chiến đấu”, cuộc vận động giải phóng Việt, Miên, Lào không thể tách rời nhau mà “gắn bó với nhau rất khăng khít”; đồng thời chỉ rõ những nguyên tắc trong liên minh chiến đấu: không đứng trên lợi ích Việt Nam mà làm công tác Lào; nắm chắc các nguyên tắc dân tộc tự quyết, nhiệm vụ cách mạng Lào do Lào tự quyết định lấy; không đem chủ trương, chính sách, nguyên tắc của Việt Nam ứng dụng vào Lào như lắp máy... Đặc biệt, Đề cương cách mạng Lào - Miên  nhấn mạnh tính khách quan và bổn phận của nhân dân ba nước Đông Dương nói chung và nhân dân hai nước Việt Nam - Lào nói riêng về việc thắt chặt liên minh chiến đấu: “Đứng trên lập trường lợi ích dân tộc mà nói thì Việt Nam kháng chiến không thành công tức là cuộc kháng chiến Lào, Miên không thành công. Trái lại, nếu Lào, Miên không kháng chiến, Pháp làm căn cứ Lào, Miên sẽ đánh Việt Nam. Lào, Miên không giải phóng, nền độc lập của Việt Nam luôn luôn bị đe dọa. Đứng trên lập trường một chiến sĩ tiên phong của Đông Dương mà nói thì Việt, Miên, Lào là một khối thống nhất (...) Ở mặt trận chúng ta không phân biệt rõ là xương máu của chiến sĩ Lào, Miên hay Việt, ở hậu phương chúng ta cũng không phân biệt rõ là mồ hôi nước mắt của nhân dân Việt hay Lào, Miên”10.

Tháng 2-1951, Đại hội lần thứ II của Đảng diễn ra tại Việt Bắc. Đại hội quyết định mỗi nước ở Đông Dương sẽ do một Đảng lãnh đạo; đồng thời khẳng định trách nhiệm của Đảng Lao động Việt Nam và nhân dân Việt Nam đối với liên minh chiến đấu ba nước Đông Dương: “Vì Đông Dương là một chiến trường và cách mạng Việt Nam có nhiệm vụ phối hợp với cách mạng Miên, Lào, nên lúc này phải tích cực giúp đỡ cuộc kháng chiến Miên, Lào, phát triển du kích chiến tranh, xây dựng lực lượng võ trang, xây dựng căn cứ địa”11. “Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam” được thông tại Đại hội nhấn mạnh lập trường cốt lõi của dân tộc Việt Nam: “1. Dân tộc Việt Nam đoàn kết chặt chẽ với hai dân tộc Miên, Lào và hết sức giúp đỡ hai dân tộc ấy cùng nhau kháng chiến chống đế quốc xâm lược, giải phóng cho tất cả các dân tộc Đông Dương. 2. Nhân dân Việt Nam đứng trên lập trường lợi ích chung mà hợp tác lâu dài với hai dân tộc Miên, Lào trong kháng chiến và sau kháng chiến”12.

Sau khi Đại hội II của Đảng; quan điểm chỉ đạo và quyết tâm phát triển liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào từ hai bên càng được tăng cường.

Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (từ ngày 22 đến ngày 28-4-1952) ra Nghị quyết về “Trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh”, trong đó, xác định rõ mối quan hệ, giúp đỡ của Việt Nam đối với phong trào kháng chiến của nhân dân Lào. Phát biểu tại Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: vì mọi quan hệ khăng khít về địa lý, quân sự, chính trị, mà quan hệ ba nước Đông Dương, trong đó có Việt Nam và Lào, “cũng như môi với răng”13. Tiếp đó, tại Hội nghị cán bộ Liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào lần thứ nhất bàn việc triển khai chương trình hành động cụ thể của Mặt trận đoàn kết liên minh nhân dân ba nước Việt - Miên - Lào (9-1952), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “kháng chiến Việt - Miên - Lào là chung của chúng ta. Việt Nam kháng chiến có thành công, thì Miên, Lào mới thắng lợi, và Miên, Lào kháng chiến có thắng lợi thì Việt Nam mới hoàn toàn thắng lợi. Việt - Miên - Lào như anh em ruột thịt trong một nhà”14. Ngày 25-2-1953, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ban hành chỉ thị về nhiệm vụ và chủ trương công tác cho cán bộ, bộ đội hoạt động ở Lào, trong đó nhấn mạnh giúp đỡ phong trào kháng chiến ở Lào ở một mức cao hơn về mặt quân sự một cách “không điều kiện” trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của Lào. Quan điểm, chủ trương nhất quán và quyết tâm chính trị rất cao của Đảng Lao động Việt Nam và nhân dân Việt Nam đối với tăng cường liên minh chiến đấu Việt Nam- Lào còn thể hiện trong nhiều chỉ đạo cụ thể của Bộ Chính trị, của Ban Bí thư, của Chủ tịch Hồ Chí Minh,... đối với những nhiệm vụ quân sự cũng như về nguyên tắc, phương châm, nhiệm vụ của cán bộ, chiến sĩ Việt Nam hoạt động tại Lào.

Chủ trương của Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam cũng là ý chí và nguyện vọng của những nhà cách mạng và của nhân dân Lào. Tháng 3-1952, Trung ương Mặt trận Lào Ítxalạ và Chính phủ kháng chiến Lào chủ trương mở chiến dịch tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân Lào về liên minh đoàn kết Việt Nam - Lào - Campuchia. Hoàng thân Souphanouvong viết: “Chiến dịch tuyên truyền liên minh Việt - Miên - Lào đã hoàn toàn đại thắng lợi, đã làm cho nhân dân càng giác ngộ, phấn khởi đoàn kết và hăng hái chiến đấu hơn, đã làm cho tình đoàn kết Việt - Miên - Lào càng thêm sâu rộng trong toàn dân”15.

Sự đồng tâm nhất trí xác lập liên minh chiến đấu vừa dựa trên yêu cầu khách quan vừa mang đậm tính chất nghĩa vụ, bổn phận, xuất phát từ tầm cao tư duy chiến lược của lãnh đạo cấp cao Việt Nam, Lào trên nền tảng lòng tin và tình cảm trong sáng, chân thành của nhân dân hai nước đã tạo ra xung lực to lớn để nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào sát cánh bên nhau chiến đấu giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

 

 

2. Liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của nhân dân hai nước trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược

 

Thành tựu của liên minh chiến đấu hai nước Việt Nam và Lào chính là kết quả trực tiếp của tư duy chiến lược và chủ trương xác lập liên minh chiến đấu hai nước, là nỗ lực phấn đấu không ngừng của nhân dân hai nước và tính hiệu quả của liên minh trên các lĩnh vực của cuộc kháng chiến.

Trước hết, liên minh chiến đấu là nhân tố quan trọng thúc đẩy lực lượng kháng chiến của nhân dân hai nước Việt Nam, Lào không ngừng lớn mạnh.

 Bước vào cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung, tiềm lực quân sự và trình độ tác chiến của Việt Nam và Lào còn nhiều khó khăn, hạn chế, so với đội quân xâm lược nhà nghề của Pháp, chênh lệch “một khoảng cách có tính chất thời đại”. Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào vừa tiến hành kháng chiến, vừa xây dựng thực lực về mọi mặt dựa trên nền tảng liên minh chiến đấu.

Thực hiện chủ trương và sự chỉ đạo của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, thực hiện các hiệp ước, văn kiện được ký kết giữa hai bên, những ý kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng, phát triển lực lượng ở Lào, các lực lượng kháng chiến Việt Nam đã toàn tâm, toàn lực giúp đỡ phong trào kháng chiến Lào xây dựng thực lực.

Trong những năm 1945-1948, Đặc ủy kiều bào và Tổng hội Việt kiều cứu quốc, Bộ tư lệnh Mặt trận Lào - Miên (thành lập năm 1947), các đơn vị bộ đội Việt kiều, của các khu, liên khu IV, V, III, X, của quân và dân các tỉnh biên giới Việt Nam giáp Lào..., đã giúp lực lượng kháng chiến Lào vượt qua những khó khăn chống chất. Từ năm 1949, gắn liền với sự phát triển của liên minh chiến đấu, lực lượng kháng chiến Lào ngày càng được tăng cường. Chấp hành chủ trương Hội nghị cán bộ lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (1-1949) về việc mở rộng Mặt trận Kháng chiến Lào, củng cố lực lượng, tăng cường thêm cán bộ Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế, giúp  xây dựng và mở rộng các căn cứ ở Lào... Việt Nam đã cử nhiều cán bộ phối hợp với lực lượng kháng chiến Lào. Ngày 20-1-1949, Đội Látxavông và Quân đội Lào Ítxala - được thành lập tại vùng căn cứ Xiềng Khọ (Hủa Phăn), do đồng chí Kaysone Phomvihane làm Tổng Chỉ huy, đánh dấu sự phát triển vượt bậc của lực lượng cách mạng Lào, là thành quả to lớn của Liên minh chiến đấu Việt Nam và Lào. Từ hoàn cảnh bị thực dân Pháp xâm chiếm và bình định trên toàn quốc, các lực lượng kháng chiến Lào gặp nhiều khó khăn trong địa bàn đứng chân, đến năm 1950, Lào đã xây dựng được nhiều vùng giải phóng và khu kháng chiến rộng lớn ở Hạ Lào, Trung Lào, Bắc Lào, Tây Bắc Lào... chiếm khoảng một phần ba diện tích đất nước, nối liền với nhau và thông với các vùng căn cứ Tây Bắc, các vùng hậu phương của Liên khu IV và Liên khu V (Việt Nam), tạo thành một thế kháng chiến liên hoàn khá vững chắc giữa Việt Nam và Lào.

Không chỉ phát triển về lực lượng quân vũ trang, liên minh chiến đấu Việt Nam và Lào thúc đẩy lực lượng chính trị cho phong trào kháng chiến ở Lào. Thông qua việc tuyên truyền vận động, các đơn vị liên quân Lào - Việt, tổ chức “hội Ítxalạ bản” xuất hiện ở Lào thu hút nhiều người Lào yêu nước tham gia; ở những nơi phong trào kháng chiến phát triển, các đoàn thể quần chúng (Hội Phụ nữ, Hội Thanh niên, v.v.) và thành lập đội “dân quân du kích bản” để canh gác, bảo vệ bản làng. Trên cơ sở những thành tựu của phong trào kháng chiến, ngày 13 đến ngày 15-8-1950, tại tỉnh Tuyên Quang (Việt Nam), diễn ra Đại hội quốc dân Lào (Mặt trận Lào kháng chiến), thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất, tức Neo Lào Ítxalạ do Hoàng thân Souphanouvong làm Chủ tịch và lập Chính phủ kháng chiến Lào do Hoàng thân Xuphanuvông làm Thủ tướng16. Đại hội đã đề ra Cương lĩnh chính trị 12 điểm, trong đó nhấn mạnh yêu cầu tăng cường đoàn kết quốc tế, trước hết là với Việt Nam và Campuchia, cùng nhau đánh đuổi kẻ thù chung là thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ, góp phần bảo vệ hòa bình thế giới.

Từ năm 1951, liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào ngày càng phát huy vai trò trong xây dựng lực lượng kháng chiến toàn diện ở Lào. Nhờ đó, uy tín và hiệu lực của Trung ương Neo Lào Ítxalạ và Chính phủ Kháng chiến Lào, của Ủy ban Quân, dân, chính ngày càng rộng lớn. Neo Lào Ítxalạ phát triển thêm hàng vạn hội viên từ mọi tầng lớp, các bộ tộc hoạt động trong các đoàn thể, như Hội Cứu quốc, Hội Phụ nữ, Hội Mẹ chiến sĩ,... Trong vùng giải phóng, cơ quan chính quyền các cấp được thành lập từ Trung ương đến địa phương; việc gìn giữ trật tự an ninh được bảo đảm, phát động phong trào vệ sinh phòng bệnh rộng rãi trong các bản làng. Để mở mang dân trí, xóa nạn mù chữ trong nhân dân, Chính phủ Kháng chiến còn quy định cách thức viết chữ Lào trong toàn quốc, mở các lớp bình dân học vụ cho người lớn, mở trường cho trẻ em... Từ năm 1953, Trung ương Đảng và Chính phủ Việt Nam giao cho các tỉnh Liên khu 4 thực hiện nhiệm vụ giúp đỡ, chi viện cho vùng giải phóng rộng lớn Bắc Lào. Từ sau chiến thắng Thượng Lào đến cuối năm 1953, nhân dân các tỉnh Liên khu 4, trong đó Thanh Hóa đã cung cấp một khối lượng lớn lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết yếu, công cụ sản xuất cho khu căn cứ kháng chiến Lào. Về lực lượng vũ trang, qua quá trình sát cánh chiến đấu và được sự hỗ trợ, giúp đỡ của bộ đội Việt Nam, lực lượng vũ trang Lào đã có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng. Các đội dân quân du kích từng bước được tổ chức lại chặt chẽ. Bộ đội giải phóng Lào sau các đợt huấn luyện đã bắt đầu nắm được chiến thuật đánh du kích. Trình độ tác chiến và chỉ huy của đội ngũ cán bộ quân sự Lào được nâng cao thêm. Từ năm 1953, quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam về nhiệm vụ giúp bạn xây dựng lực lượng quân sự, Bộ Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam ở Mặt trận Thượng Lào đề ra phương châm xây dựng bộ đội tình nguyện gắn liền với việc giúp đỡ xây dựng lực lượng vũ trang Lào. Các đại đội độc lập cũng như tiểu đoàn tập trung của Việt Nam phụ trách một đơn vị Lào cùng đi theo để giúp đỡ, xây dựng và dìu dắt tác chiến; đồng thời, phải giúp đỡ xây dựng, dìu dắt dân quân du kích. Đến cuối năm 1953, một số tiểu đoàn tập trung và các đại đội độc lập của lực lượng vũ trang cách mạng Lào được xây dựng.

Có thể thấy, sự phát triển của lực lượng kháng chiến ở Lào vừa là hệ quả giúp đỡ của Việt Nam, vừa là nhân tố hỗ trợ và thúc đẩy Việt Nam phát triển thực lực kháng chiến. Sự phát triển lực lượng kháng chiến của liên minh chiến đấu Việt Nam và Lào là cơ sở trực tiếp, quan trọng nhất đề nhân dân hai nước trụ vững và vượt qua khó khăn chồng chất, từng bước tiến lên giành thế chủ động, càng đánh càng mạnh và tạo ra những thắng lợi to lớn về mọi mặt, nhất là về quân sự, đi đến kết thắng lợi cuộc kháng chiến.

  Thứ hai, liên minh chiến đấu tạo nên những thắng lợi to lớn, mang tính quyết định về mặt quân sự của quân và dân hai nước Việt Nam và Lào.

Với tư tưởng chỉ đạo chiến lược Đông Dương là một chiến trường “phải đánh theo một chiến lược chung”17, lãnh đạo hai nước Việt Nam và Lào đã sớm thống nhất lựa chọn, quyết định xây dựng chiến trường Lào thành chiến trường phối hợp đắc lực với chiến trường chính Việt Nam.

Thực hiện chủ trương trên, quân và dân Việt Nam đẩy mạnh chiến đấu trên khắp các chiến trường ở Bắc Bộ, Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Bình Trị Thiên...; trong khi đó, cán bộ, chiến sĩ tình nguyện Việt Nam tại Lào đã kề vai sát cánh cùng với lực lượng vũ trang kháng chiến Lào, chiến đấu chống mở rộng chiến tranh, chống địch càn quét lấn chiếm, phát triển chiến tranh du kích rộng khắp, tiến hành đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, buộc quân viễn chính Pháp phải phân tán, căng sức trên khắp các chiến trường Đông Dương.

Trong những năm 1945 đến năm 1950, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, liên quân chiến đấu Việt Nam - Lào đã tổ chức nhiều trận đánh trên các mặt trận để ngăn quân Pháp ở rộng địa bàn chiếm đóng, tiêu hao sinh lực địch, ngăn cản quân địch đánh chiếm các thành phố, thị xã; chuyển hướng trở về hoạt động ở vùng nông thôn, rừng núi, tiến hành công tác vũ trang tuyên truyền, xây dựng cơ sở chính trị, phát động chiến tranh du kích, thiết lập các khu căn cứ, chuẩn bị điều kiện kháng chiến lâu dài; tiến hành chiến tranh nhân dân và giành được những thắng lợi rất căn bản, đánh bại chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp, buộc đối phương phải chuyển sáng đánh lâu dài và ngày càng lao vào thế bị động.

Trên đà thắng lợi đó, trong những năm 1951-1952, lực lượng kháng chiến Lào được sự phối hợp, giúp đỡ của Quân tình nguyện Việt Nam18 đẩy mạnh chống địch càn quét lấn chiếm, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng ở Lào. Nắm vững phương châm du kích chiến, phối hợp tác chiến cùng bộ đội tình nguyện Việt Nam, bộ đội cách mạng Lào đã chủ động mở nhiều trận tập kích, phục kích ở trên khắp các địa bàn Thượng, Trung và Hạ Lào, tiêu hao, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch. Cùng với các trận tập kích, phục kích của quân tình nguyện Việt Nam và bộ đội Lào, du kích ở các bản, mường ở Xiêng Khoảng, Viêng Chăn, Xavẳnnakhệt... đã dùng vũ khí thô sơ chống trả quyết liệt quân địch càn quét, bảo vệ tài sản, bản mường. Đồng thời, nhiều cơ sở chính trị được phát triển trong các thành thị như Viêng Chăn, Xavẳnnakhệt, Pạc Xê... Phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân trong vùng địch kiểm soát như chống bắt lính, bắt đi phu, chống quyên góp... đã nổ ra ở nhiều nơi, làm cho địch gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong âm mưu “bình định” và thực hiện chính sách vơ vét, bóc lột tiền của để phục vụ cuộc chiến tranh xâm lược.

Từ năm 1953, quân và dân hai nước Việt Nam và Lào đã phối hợp mở liên tiếp các chiến dịch tiến công lớn trên các chiến trường, tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng của địch. Tháng 4 -1953, Quân đội Việt Nam phối hợp với Quân đội Lào Ítxalạ tiến hành Chiến dịch Thượng Lào, giải phóng toàn bộ tỉnh Sầm Nưa, một phần Xiêng Khoảng và Phôngxalỳ. Tháng 12-1953, một bộ phận quân chủ lực Việt Nam phối hợp với bộ đội Lào Ítxalạ và quân tình nguyện Việt Nam tại Lào mở chiến dịch Trung, Hạ Lào. Chiến thắng của Liên quân Việt - Lào góp phần làm phá sản kế hoạch tập trung quân của Nava, buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó trên nhiều chiến trường, tạo điều kiện củng cố, phát triển thế phối hợp chiến lược giữa hai nước Việt Nam và Lào. Trong 6 tháng cuối năm 1953, các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam ở Thượng Lào phối hợp cùng quân giải phóng Lào đã đánh 96 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 505 tên địch, thu nhiều súng đạn và đồ quân dụng, bắn rơi một máy bay địch19.

Đặc biệt, trong Chiến cuộc Đông-Xuân 1953-1954, chiến trường Lào đã phát huy tác dụng là chiến trường phối hợp đắc lực với chiến trường chính Việt Nam, thu hút và làm phá sản kế hoạch tập trung binh lực địch. Ngày 13-3-1954, quân và dân Việt Nam mở đầu cuộc tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Phối hợp với chiến trường chính Việt Nam, quân và dân Lào liên tục đẩy mạnh các hoạt động quân sự từ Bắc xuống Nam Lào để kiềm chế lực lượng địch, đồng thời hỗ trợ Mặt trận Điện Biên Phủ. Ngày 7-5-1954, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị tiêu diệt hoàn toàn. Đó là thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam và cũng là thắng lợi của khối đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam, Lào. Cũng trong cuộc tổng tấn công chiến lược 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy, vùng giải phóng Hạ Lào được củng cố, phát triển thành vùng tự do rộng lớn.

Nhận xét về hiệu quả và sức mạnh đoàn kết liên minh chiến đấu của ba nước Đông Dương, trong đó có liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, đồng chí Lê Duẩn viết: “Đó là thắng lợi của khối liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào, và cũng là của Đảng Cộng sản Đông Dương đã lãnh đạo cách mạng toàn Đông Dương và đã chủ trương thành lập khối ấy”20. Một học giả nước ngoài viết: “Không nghi ngờ gì nữa, chính trình độ đoàn kết có hiệu quả thực sự ấy đã dẫn tới thất bại của Pháp ở Đông Dương, mà tượng trưng là chiến thắng lịch sử của Quân đội nhân dân Việt Nam tại Điện Biên Phủ. Chiến thắng đó là sản phẩm của những nỗ lực quân sự thống nhất và có phối hợp”21.

Thứ ba, liên minh chiến đấu Việt Nam và Lào thúc đẩy và tạo điều kiện chuẩn bị thành lập một Đảng cách mạng chân chính ở Lào; tạo dựng đội ngũ cán bộ Việt Nam và Lào đoàn kết  gắn bó bền chặt, tin tưởng tuyệt đối lẫn nhau

Do điều kiện cụ thể, trong những năm đầu thực hiện liên minh chiến đấu, cách mạng Lào gặp nhiều khó khăn trong phát triển đảng viên, xây dựng tổ chức Đảng. Từ đầu năm 1949, trước yêu cầu tăng cường liên minh chiến đấu, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương xúc tiến mạnh mẽ công tác xây dựng tổ chức Đảng, các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở Lào. Tháng 2-1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định thành lập các ban cán sự Đảng để phụ trách các khu vực kháng chiến ở Lào22. Việc phát triển, xây dựng đội ngũ đảng viên người Lào chú trọng. Ngày 18-3-1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 34-CT/TW, Về công tác gây căn cứ du kích ở Lào Bắc, trong đó yêu cầu Liên khu X chú ý đào tạo cán bộ địa phương, chính người Lào, để cho phong trào bắt rễ sâu trong nhân dân Lào; việc gây cơ sở Đảng cũng cần chú ý. Điều kiện đảng viên cần chú trọng tinh thần kháng chiến, khi tổ chức vào Đảng sẽ giáo dục sau. Chỉ thị nhấn mạnh: “một nguyên tắc chung là: mọi việc tuyên truyền, tổ chức chính quyền, quần chúng, Đảng, cũng đều phải căn cứ vào tình hình cụ thể ở Lào”23.

Chính sự lớn mạnh của liên minh chiến đấu, sự phát triển của phong trào kháng chiến ở mỗi nước và yêu cầu tăng cường đoàn kết ba dân tộc mà Đại hội lần thứ II của Đảng họp tại Việt Bắc (2-1951), đã quyết định tách Đảng Cộng sản Đông Dương thành ba Đảng. Đồng chí Kaysone Phomvihane đại diện cho những người cộng sản Lào tham dự đã nhất trí cao, hoàn toàn tán thành và ủng hộ đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc thành lập tại mỗi nước Đông Dương một Đảng Cộng sản: “tách Đảng Cộng sản Đông Dương ra Đảng Lao động Việt Nam và ở Miên, Lào có hai tổ chức khác là rất đúng và thích hợp với tình hình mới, ba dân tộc có ba quốc gia rõ rệt... Chúng tôi, người cộng sản Lào hiểu rõ và tán thành đề nghị đó không chút thắc mắc”24. Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu: “Vì chúng ta như con một nhà, một nhà cộng sản, một nhà cách mạng. Bây giờ con cái đã khôn lớn rồi phải chia nhà, chia của ở riêng. Con trai có vợ, con gái có chồng, sau này đẻ con, đẻ cháu đông đúc, từ gia đình nhỏ tiến lên gia đình lớn rất mạnh, từ gia đình lớn đến họ hàng, họ hàng càng to, càng mạnh, đông người nhiều việc, nhất định thành công”25.

Chấp hành Nghị quyết Đại hội lần thứ II Đảng Cộng sản Đông Dương, các đồng chí Lào là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương đã tổ chức thành “Nhóm Nhân dân Lào” để tiếp tục lãnh đạo cách mạng và chuẩn bị cho việc thành lập đảng chính trị của mình.

Sau khi ra hoạt động công khai, Đảng Lao động Việt Nam đã tích cực thực hiện nghĩa vụ phối hợp và giúp đỡ các tổ chức cách mạng Lào xây dựng chính đảng Mácxít để lãnh đạo cuộc kháng chiến ở Lào. Theo yêu cầu của Mặt trận Ítxalạ và Chính phủ Kháng chiến Lào, tháng 3-1951, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã đề ra mục tiêu và kế hoạch giúp các đồng chí đảng viên, cán bộ và nhân dân Lào xây dựng chính Đảng Mác-Lênin để lãnh đạo cách mạng Lào. Theo tinh thần ấy, tháng 4-1951, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định thành lập Ban Cán sự Đảng ở Mặt trận Thượng Lào; sau đó, Ban Cán sự Đảng các mặt trận Trung Lào, Hạ Lào cũng lần lượt được bổ sung, kiện toàn để có đủ sức giúp cách mạng Lào và thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ được giao.

Đầu năm 1951, được sự ủng hộ và giúp đỡ của Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam, Trung ương Neo Lào Ítxalạ mở trường chính trị đầu tiên với tên gọi là Trường Đoàn kết nhằm bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận và khả năng công tác cho đội ngũ cán bộ cốt cán từ trung ương đến địa phương. Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ và phát triển đảng viên Lào càng được quan tâm phát triển. Khẩn trương chuẩn bị về tổ chức cho việc thành lập Đảng, tháng 11-1951, các “Nhóm trung kiên” được xây dựng gồm các đảng viên cộng sản Lào và những cốt cán ở địa phương tại Lào. Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam chỉ đạo các đảng viên Việt Nam và tổ chức Đảng Lao động Việt Nam ở Lào giúp “Nhóm trung kiên” Lào giữ vững sinh hoạt và lãnh đạo kháng chiến. Các Ban Cán sự Đảng Lao động Việt Nam ở Thượng, Trung và Hạ Lào đều triển khai giáo dục cho cán bộ, đảng viên Lào quán triệt nội dung tinh thần Nghị quyết của Đại hội lần thứ II Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 2-1951) về công tác xây dựng đảng Mác-Lênin để lãnh đạo cách mạng Lào. Đến năm 1952, tổng số đảng viên cộng sản ở các địa phương Thượng, Trung và Hạ Lào đã tăng lên 433 đồng chí. Sau chiến thắng Thượng Lào, Ban Cán sự Đảng Lao động Việt Nam ở Lào đã phối hợp và giúp những nhà cách mạng Lào thành lập “Ban vận động thành lập Đảng Nhân dân Lào”, do đồng chí Kaysone Phomvihane  làm Trưởng ban. Nhiệm vụ của Ban này là chỉ đạo công tác thẩm tra, chọn lọc kỹ đảng viên; nghiên cứu dự thảo Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng và chuẩn bị triệu tập Đại hội đại biểu để thành lập Đảng. Đến cuối tháng 7-1954, số đảng viên toàn Lào có 300 đồng chí và 600 đồng chí trung kiên được tiếp tục bồi dưỡng để kết nạp vào Đảng. Trong quá trình chuẩn bị về các mặt chính trị và tổ chức, Ban Vận động thành lập Đảng Nhân dân Lào đã nhận được sự phối hợp và giúp đỡ của Đảng Lao động Việt Nam. “Ban Vận động thành lập Đảng Nhân dân Lào” ra đời đã tạo cơ sở vững chắc để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Lào, đồng thời là nhân tố trọng yếu, có ý nghĩa quyết định thúc đẩy quan hệ đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa cách mạng hai nước Lào - Việt Nam.

Như vậy, Liên minh chiến đấu Việt Nam và Lào đã đặt ra yêu cầu tổ chức ở mỗi nước Đông Dương một Đảng riêng, và là nhân tố trực tiếp thúc đẩy công tác xây dựng chính đảng cách mạng ở Lào đạt những thành quả căn bản cả về chính trị và tổ chức, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập Đảng Nhân dân Lào (nay là Đảng Nhân dân Cách mạng Lào) vào năm 1955 và cho việc củng cố, phát triển đảng về sau này.

Liên minh chiến đấu Việt Nam và Lào đã đưa những cán bộ, chiến sĩ Việt Nam hoạt động ở Lào, đưa những cán bộ, chiến sĩ Lào hoạt động, đứng chân ở Việt Nam sát cánh bên nhau, đồng cam cộng khổ cùng phấn đấu vì sự nghiệp đấu tranh chung, từ đó, hình thành tình cảm chân thành, gắn bó keo sơn. Trong quá trình công tác, đội ngũ cán bộ hai nước Việt Nam và Lào luôn được Đảng Cộng sản Đông Dương, lãnh đạo cấp cao hai Đảng giáo dục rèn luyện về tinh thần trách nhiệm, tác phong công tác để đóng góp vào phát triển liên minh chiến đấu. Sự giáo dục rèn luyện đó được thể hiện tập trung trong những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ Việt Nam sang làm nghĩa vụ quốc tế tại Lào tại Hội nghị cán bộ Liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào (tháng 9-1952): “Cán bộ Việt Nam sang công tác ở Lào phải hoàn toàn ở dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Trung ương Lào, nhất là của Thủ tướng Souphanouvong. Tuyệt đối không được tự cao, tự đại, không được bao biện. Bất kỳ việc gì phải nghe Chính phủ Lào, cán bộ Việt Nam phải đoàn kết tinh thần, đoàn kết công tác với cán bộ và nhân dân Lào. Đây là mệnh lệnh của Chính phủ Trung ương Việt Nam cho cán bộ tình nguyện Việt Nam đi công tác ở Lào (...) Mong cán bộ Việt Nam làm việc ở Lào thành khẩn, thật thà tự phê bình và mong các đồng chí Lào cũng phê bình anh em Việt Nam thật thà không nể nả. Mục đích là thật thà với nhau, giúp nhau tiến bộ và do đó đoàn kết chặt chẽ hơn, nể nả là sai. Vì cách mạng, vì đoàn kết ba dân tộc mà phê bình”26. Xây dựng lòng tin chính trị tuyệt đối, tinh thần trách nhiệm cao cả, tính cảm sâu đậm, sự gắn bó keo sơn giữa đội ngũ cán bộ của Việt Nam và Lào  là một thành tựu căn bản, to lớn, có ý nghĩa chiến lược lâu dài trong quan hệ hai nước.

Thứ tư, liên minh chiến đấu Việt Nam đã củng cố sự gắn kết chân thành, bền chặt giữa nhân dân hai nước, là sức mạnh để đấu tranh làm thất bại âm mưu và hành động phá hoại tình đoàn kết nhân dân hai nước Việt Nam và Lào.

Tiến hành xâm lược Đông Dương lần thứ hai, thực dân Pháp thực hiện cuộc chiến tranh tổng lực cả về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, trong đó, có âm mưu và hành động chia rẽ khối đại đoàn kết 2 nước Đông Dương cũng như phá hoại khối liên minh chiến đấu Việt Nam và Lào. Đi đôi với mở rộng xâm lược, kìm kẹp, khống chế về quân sự, thực dân Pháp dùng mọi thủ đoạn mua chuộc, lừa bịp về chính trị ở Lào, như ký Hiệp định ngày 28-7-1946, cho Lào “độc lập thống nhất và tự trị trong khối Liên hiệp Pháp”, lập Chính phủ và bầu Quốc hội Viêng Chăn (tháng 5-1946); thành lập các đảng phái chính trị làm công cụ chia rẽ nội bộ, phá phong trào cách mạng Lào; ra sức vơ vét của cải, tăng thuế, bắt phu phen tạp dịch, thực hiện chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, “dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương” chia rẽ mối quan hệ láng giềng thân thiện, tình đoàn kết chiến đấu giữa Việt Nam và Lào...

Trước âm mưu thâm độc của thực dân Pháp, liên minh chiến đấu Việt Nam và Lào đã phát huy vai trò trong củng cố sự đoàn kết của hai dân tộc Việt Nam và Lào. Ngay từ buổi đầu thiết lập liên minh, những chiến sĩ Việt Nam đã tình nguyện chiến đấu, xả thân vì tự do, độc lập của nhân dân Lào. Tiêu biểu cho tinh thần chiến đấu cao đẹp đó là trận chiến đấu bảo vệ Thà Khẹc vào ngày 21-3-1946 với sự hy sinh của nhiều chiến sĩ Việt Nam và Lào, trong đó có chiến sĩ Việt Nam Lê Thiệu Huy (con cụ Lê Thước) mà tấm gương hy sinh đó “nhắc nhở cho thanh niên Lào, cho nhân dân Lào, luôn luôn bền bỉ đấu tranh để diệt xâm lăng, giành độc lập thật sự cho đất nước”27. Trong quá trình công tác, nhiều chiến sĩ người Việt Nam đã nhận mẹ, chị nuôi với người Lào. Nhờ vậy, quan hệ giữa bộ đội và nhân dân ngày càng gắn bó, nhân dân Lào gọi các chiến sĩ Việt kiều là “bộ đội bạn”, “bộ đội Việt Nam anh em”. Tinh thần dũng cảm trong chiến đấu, kiện cường bám dân, bám đất, tác phong gần gũi, gắn bó và thực hiện “3 cùng” với nhân dân của các chiến sĩ Lào và Việt Nam trong liên quân đã gây tình cảm sâu đậm của nhân dân Lào đối nhân dân Việt Nam và đối với Liên minh chiến đấu.

Đỉnh cao quyết tâm chính trị về củng cố và phát triển tình đoàn kết, liên minh chiến đấu hai nước Việt Nam - Lào là Hội nghị thành lập Mặt trận đoàn kết liên minh nhân dân ba nước Việt - Miên - Lào tổ chức từ ngày 11 đến ngày 13-3-1951 tại xã Vinh Quang (nay là xã Kim Bình), huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Khối liên minh nhân dân Việt Nam - Campuchia - Lào được thành lập theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tương trợ và tôn trọng chủ quyền của nhau, cùng nhau đánh đuổi bọn thực dân, đế quốc xâm lược, giành độc lập thực sự cho nhân dân Đông Dương. Hội nghị nhất trí đề ra chương trình hành động chung và cử ra Ủy ban liên minh nhân dân ba nước Đông Dương28, có nhiệm vụ thực hiện các nghị quyết của Hội nghị và tăng cường hơn nữa mối quan hệ giữa nhân dân ba nước. Việc thành lập khối liên minh nhân dân Việt Nam - Lào - Campuchia tạo cơ sở nâng cao quan hệ đoàn kết và phối hợp chiến đấu giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Lào, đồng thời, là đòn giáng mạnh mẽ vào chính sách “chia để trị” của thực dân Pháp.

Tiếp đó, để giáo dục và tăng cường tình đoàn kết của nhân dân Lào với nhân dân Việt Nam, Ban Tuyên huấn Trung ương Lào được thành lập và ra báo Ítxalạ mỗi tháng một kỳ (tháng 8-1951), để giới thiệu, trình bày chủ trương, đường lối của Neo Lào Ítxalạ, mở đợt vận động tuyên truyền về liên minh đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương chống kẻ thù chung. Mùa Hè năm 1951, Trung ương Neo Lào Ítxalạ cử một phái đoàn đại diện nhân dân Lào do Hoàng thân Xuphanuvông dẫn đầu đi thăm miền Bắc Việt Nam để trao đổi kinh nghiệm về mọi mặt và thắt chặt tình đoàn kết chiến đấu giữa hai dân tộc Lào - Việt, Việt - Lào. Tháng 3-1952, Trung ương Mặt trận Lào Ítxalạ và Chính phủ Kháng chiến Lào mở chiến dịch tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân cả nước về liên minh đoàn kết Lào - Việt Nam. Các đơn vị quân tình nguyện và các đội công tác của Việt Nam ở Thượng Lào phối hợp với bạn tổ chức Tuần lễ đoàn kết Việt - Lào, trong đó tập trung tuyên truyền giải thích ý nghĩa chiến thắng Thượng Lào, củng cố và tăng cường tình đoàn kết hữu nghị Việt - Lào, Lào - Việt.

Nhận xét về mối quan hệ đoàn kết giữa hai dân tộc cùng chống kẻ thù chung ở giai đoạn này, nhà lãnh đạo cách mạng Lào, Phumi Vôngvichít đã viết: “Cán bộ và bộ đội quân tình nguyện Việt Nam đến giúp đã làm cho lực lượng cách mạng chúng tôi mạnh thêm. Thái độ và đạo đức tốt đẹp của cán bộ, bộ đội tình nguyện Việt Nam đã làm cho cán bộ, bộ đội và nhân dân Lào yêu mến họ, làm cho tình đoàn kết Lào - Việt Nam mà hai bên đã cùng nhau xây đắp bằng xương máu ngày càng bền chặt”29.

Thứ năm, liên minh chiến đấu Việt Nam và Lào là nguồn sức mạnh đề nhân dân hai nước Việt Nam và Lào phối hợp đấu tranh trên mặt trận ngoại giao.

Vượt qua những khó khăn ban đầu về mặt đối ngoại, trên thế thắng lợi của liên minh chiến đấu, hai nước Việt Nam và Lào đã phối hợp đẩy mạnh đấu tranh trên diễn đàn quốc tế. Tháng 10 và tháng 12-1952, các đoàn đại biểu kháng chiến Việt Nam, Pathét Lào đã tham gia Hội nghị hòa bình châu Á và Thái Bình Dương ở Bắc Kinh (Trung Quốc) và Đại hội hòa bình thế giới lần thứ 2 ở thủ đô Viên (Áo) ; Festival thanh niên - sinh viên thế giới tổ chức ở Bucarét, thủ đô của Rumani. Lần đầu tiên trên các diễn đàn quốc tế, vấn đề Lào được nêu ra thảo luận chung với vấn đề Việt Nam và Đông Nam Á.

Liên minh chiến đấu của nhân dân hai nước cũng như tình đoàn kết chiến đấu 3 nước Đông Dương còn là cơ sở để đại diện Việt Nam dân chủ cộng hòa đấu tranh trên mặt trận ngoại giao tại Hội nghị Giơnevơ, đòi những quyền lợi dân tộc quốc gia chính đáng cho nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và nhân dân Campuchia. Ngày 21-5-1954, thay mặt Chính phủ kháng chiến Lào, Thủ tướng Souphanouvong ra tuyên bố: “Việc tìm cách lập lại hoà bình ở Đông Dương tại Hội nghị Giơnevơ phải có đại biểu Pathết Lào (...) tham gia. Trong khi đại biểu của mình chưa tham dự Hội nghị Giơnevơ, Chính phủ kháng chiến Pathét Lào hoàn toàn đồng ý và ủng hộ lập trường và đề nghị của đoàn đại biểu nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà tại Hội nghị Giơnevơ về vấn đề ngừng bắn và đình chiến trên toàn cõi Đông Dương để lập lại hoà bình ở Đông Dương”30.

Với tư thế đại diện cho một dân tộc chiến thắng, ngay từ phiên họp đầu tiên ngày 8-5-1954, Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ cộng hoà Phạm Văn Đồng tuyên bố rõ lập trường của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa về việc lập lại hoà bình ở Đông Dương phải là một giải pháp hoàn chỉnh cả về quân sự và chính trị cho cả Việt Nam, Lào, Campuchia, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước Đông Dương. Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ cộng hoà đề nghị Hội nghị mời đại biểu của Chính phủ kháng chiến Pathết Lào và Chính phủ kháng chiến Khơme Itxarắc tham gia Hội nghị vì hai Chính phủ đó được nhân dân ủng hộ, có uy tín và ảnh hưởng lớn trong toàn thể nhân dân hai nước, sẽ là một đảm bảo cho Hội nghị thành công31.

Lời đề nghị của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã bị các đại biểu Mỹ và Pháp kiên quyết bác bỏ32. Do đó, tại Hội nghị Giơnevơ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đại diện cho lập trường, tiếng nói của Nhân dân và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, của Chính phủ kháng chiến Lào và Campuchia.

Ngày 10-5-1954, tại phiên họp toàn thể thứ hai, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nêu rõ quan điểm: “Nhân dân và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, cũng như nhân dân và Chính phủ Khơme và Pathết Lào nguyện dùng đường lối đàm phán để giải quyết vấn đề khôi phục hoà bình ở Đông Dương trên cơ sở nhìn nhận các quyền dân tộc của nhân dân Đông Dương: Độc lập và thống nhất dân tộc, tự do dân chủ, do đó mà tạo điều kiện xây dựng quan hệ hữu nghị giữa nhân dân Đông Dương và nước Pháp trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng quyền lợi lẫn nhau. Đó là con đường bảo đảm khôi phục theo công lý và danh dự một nền hoà bình vững chắc và lâu dài ở Đông Dương; con đường duy nhất bảo đảm thực sự hoà bình và an ninh của các nước Đông Nam Á và Á châu và góp phần vào việc làm dịu bớt tình hình quốc tế, duy trì và củng cố hoà bình thế giới”33.

Trưởng đoàn Việt Nam đưa ra bản đề nghị gồm 8 điểm, trong đó nêu rõ những vấn đề có tính nguyên tắc, đó là: Nước Pháp phải công nhận chủ quyền và độc lập của nước Việt Nam, công nhận chủ quyền và độc lập của hai nước Lào và Campuchia; quân đội nước ngoài phải rút hết khỏi Đông Dương trong một thời hạn do hai bên thỏa thuận; việc thống nhất quốc gia Việt Nam, Lào và Campuchia sẽ thông qua tổng tuyển cử tự do ở mỗi nước, các nước ngoài không được can thiệp... Đề nghị đó thể hiện rõ nguyện vọng, ý chí hoà bình của nhân dân và Chính phủ Việt Nam cũng như của nhân dân và Chính phủ kháng chiến Pathết Lào và Khơme, phù hợp với hòa bình và an ninh của nhân dân các nước châu Á và thế giới. Tại Hội nghị Giơnevơ, Việt Nam đấu tranh đòi ở Lào có 2 vùng tập kết của các lực lượng kháng chiến: một vùng ở phía Bắc và một vùng ở phía Hạ Lào; tổ chức tổng tuyển cử tự do trong thời hạn 6 tháng ở Lào...

Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương năm 1954 qui định các nước tham gia hội nghị cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và tuyệt đối không can thiệp vào công việc nội bộ của ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Do tương quan lực lượng và ý đồ của một số cường quốc tham gia Hội nghị muốn hạn chế thắng lợi của cách mạng Đông Dương nên giải pháp Giơnevơ không phản ánh hết thắng lợi của nhân dân ba nước Đông Dương trên chiến trường. Mặc dù vậy, cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ, việc ký kết Hiệp định Giơnevơ là thắng lợi quan trọng của sự nghiệp đoàn kết kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương, của liên minh chiến đấu Việt Nam và Lào nói riêng, đánh dấu sự kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương, đáp ứng nguyện vọng hoà bình của nhân dân Đông Dương và nhân dân thế giới. Miền Bắc Việt Nam được giải phóng; nhân dân Lào tiến thêm một bước dài trên hành trình đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước với sự ra đời của Khu giải phóng Sầm Nưa. Đánh giá về kết quả Hội nghị, đồng chí Kaysone Phomvihane, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào khẳng định: “Đây là thắng lợi lịch sử của nhân dân Lào cũng như của nhân dân hai nước Việt Nam và Campuchia, chấm dứt ách thống trị kéo dài hơn 80 năm của thực dân Pháp, góp phần vào việc mở màn thúc đẩy quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới”34.

Từ hiện thực lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân 2 nước Việt Nam - Lào có thể thấy, liên minh chiến đấu trong đấu tranh giải phóng là một tất yếu khách quan, xuất phát từ tầm cao trong tư duy chiến lược, từ lòng tin chính trị tuyệt đối, nguyện vọng và tình cảm chân thành, gắn bó của nhân dân hai nước, là nhân tố quyết định thắng lợi của nhân dân 2 nước Việt Nam, Lào trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung, vì độc lập tự do của mỗi nước. Thực tiễn liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào trong kháng chiến chống thực dân Pháp chính là minh chứng sinh động cho qui luật thắng lợi của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam mà nhân dân hai nước cần bảo vệ, vun đắp và phát huy trong hiện tại và tương lai.

 

Bài đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng (in), số 7/2021

1. Chủ tịch Kaysone Phomvihane cho biết: “Khi thảo luận về mối quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước và giữa nhân dân hai nước, Bác Hồ và chúng tôi đều thấy rằng, ngoài mối quan hệ giữa hai Đảng cùng chung lý tưởng cộng sản, giữa hai nước xã hội chủ nghĩa láng giềng thì mối quan hệ giữa hai Đảng Cộng sản, giữa nhân dân hai nước chúng ta còn có sự gắn bó thân thiết không giống bất cứ nước nào. Bác Hồ và chúng tôi cùng suy nghĩ. Bác Hồ tay gõ lên trán và nói: “chúng ta phải gọi là quan hệ đặc biệt”. Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với Bác vì đó là sự thật lịch sử”. Báo Nhân dân, số ra ngày 4-7-1989

2. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công tại Việt Nam, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố Tuyên ngôn Độc lập thành lập Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Lào kết thúc thắng lợi vào tháng 8-1945; ngày 12-10-1945, Chính phủ lâm thời Lào ra mắt, công bố Tuyên ngôn Độc lập của nước Lào, công bố Hiến pháp lâm thời, Quốc Kỳ của nước Lào Ítxalạ

3. Tổ chức Lào Ítxalạ là một trong những tổ chức yêu nước tham gia và có đóng góp quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập ở Lào

4. Dẫn theo Trần Đương: Chủ tịch Hồ Chí Minh với Hoàng thân Xuphanuvông, Nxb Thông tấn, H, 2007, tr. 21-22

5. Báo Cờ Giải phóng, số 27, ra ngày 21-10-1945

6. Hiệp ước quy định việc chuyển các lực lượng vũ trang Việt kiều ở Lào thành các đơn vị trực thuộc liên quân; Ban Chỉ huy liên quân gồm cán bộ người Lào và người Việt Nam, do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lào trực tiếp chỉ huy. Ngày 1-11-1945, Hoàng thân Souphanouvong được cử làm Tổng tư lệnh Lào, đồng thời là Tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang liên quân Lào - Việt Nam

7. Trụ sở Ủy ban ngoại vụ Lào đặt tại số nhà 228, phố Bà Triệu, Hà Nội

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, T. 8, tr. 26

9. “Kayxỏn Phômvihản - Người con trung thành của Đảng và của nhân dân”. Bài đăng trên báo Paxaxôn (Nhân dân) Lào, từ số ra ngày 24-6 đến 1-7- 1975

10. Lưu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước

11, 12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2001, T.12, tr. 424, 441-442

13. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2011, T .7, tr. 385

14. Hồ Chí Minh: Lời phát biểu tại Hội nghị cán bộ Liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào lần thứ nhất, tháng 9-1952. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

15. Chủ tịch Neo Lào Ítxala gửi ông Nouhak (16-12-1952), Điện số 154, HS 1574, Phông PTT, Trung tâm lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội

16. Do Pháp mở rộng đánh chiếm, Chính phủ độc lập lâm thời Lào, sau hơn tám tháng hoạt động đã phải lánh sang Thái Lan (tháng 6 năm 1946). Đến ngày 26-10-1949), Chính phủ độc lập lâm thời Lào do các phần tử thiếu kiên định chi phối đã tuyên bố tự giải thể

17. Văn kiện Đảng về kháng chiến chống thực dân Pháp, (1945-1950), Nxb ST, H, 1986, T. 1, tr. 393

18. Ngày 30-10 -1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định các lực lượng quân sự của Việt Nam được cử làm nhiệm vụ quốc tế tại Lào tổ chức thành hệ thống riêng và lấy danh nghĩa là Quân tình nguyện

19. “Báo cáo tổng kết sáu tháng cuối năm 1953 của Mặt trận Thượng Lào”. Tài liệu lưu trữ của Bộ Tổng Tham mưu

20. Lê Duẩn: Chỉ thị gửi Ban Cán sự Miên về vấn đề lãnh đạo tư tưởng cán bộ trước tình hình mới, ngày 11-8-1954. Tài liệu lưu trữ tại Viện Lịch sử Đảng

21. U. Bớc sét: Tam giác Trung Quốc-Campuchia-Việt Nam, Nxb Thông tin lý luận, H, 1986, tr. 23

22. Theo đó, Ban Cán sự Lào Bắc (trực thuộc Trung ương Đảng) phụ trách khu vực Bắc Lào; Ban Cán sự Lào Trung do Liên khu ủy 4 lãnh đạo, phụ trách khu vực Trung Lào; Ban Cán sự Hạ Lào do Liên khu ủy 5 lãnh đạo phụ trách khu vực Hạ Lào; Ban Cán sự Tây Lào do Trung ương Đảng Hải ngoại lãnh đạo, phụ trách khu vực Tây Lào

23. Ban Chấp hành Trung ương Đảng: Chỉ thị số 34-CT/TW, ngày 18-3-1949 “Về công tác gây căn cứ du kích ở Lào Bắc”, tài liệu lưu trữ tại Viện Lịch sử Đảng

24, 25. Biên bản Đại hội II Đảng Cộng sản Đông Dương, Lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng

26.  Hồ Chí Minh: Lời phát biểu tại Hội nghị cán bộ Liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào lần thứ nhất, tài liệu đã dẫn

27. Thư của Hoàng thân Souphanouvong gửi cụ Lê Thước ngày 7-11-1951. Lưu tại Phòng Tư liệu Viện Đông Nam Á, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam

28. Ủy Ban có sự tham gia của các nhà lãnh đạo cấp cao của Việt Nam và Lào là: Phạm Văn Đồng, Hoàng Quốc Việt, Hoàng Minh Giám (Việt Nam), Xuphanuvông, Nủhắc Phumxavẳn (Lào)

29. Phumi Vôngvichít: Nhớ lại đời tôi trong quá trình lịch sử đất nước Lào (Hồi ký), Nxb CTQG, H, 1993, tr. 9

30. Lời tuyên bố của Chính phủ kháng chiến Pathét Lào (ngày 21-5-.1954), Hồ sơ 1522, tờ 101, Phông PTT, Trung tâm lưu trữ Quốc gia I

31. Báo Nhân dân, số 184, từ ngày 12 đến ngày 15-5-1954

32. Do sự phản đối của đại biểu Mỹ và Pháp nên các đại diện lực lượng kháng chiến Khơme Ítxarắc và Pathết Lào cũng đã có mặt tại Giơnevơ, nhưng không được tham gia Hội nghị

33. Báo Nhân dân, số 185, từ ngày 16 đến ngày 18-5-1954

34. Kayxỏn Phômvihản: Mãi mãi đứng bên cạnh nhân dân Việt Nam anh hùng, Nxb ST, H,1982, tr. 21.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), “quan hệ đặc biệt” Việt Nam và Lào mang nội dung “Liên minh chiến đấu” - một điển hình, mẫu mực, hiếm có về sự gắn kết keo sơn, bền chặt, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc đấu tranh vì độc lập, tự do. 1. Liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam đáp ứng yêu cầu khách quan, xuất phát từ tầm cao nhận thức chiến lược của lãnh đạo cấp cao và nguyện vọng, tình cảm của nhân dân hai nước trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược Cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc thành công, Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và Nước Lào Ítxalạ ra đời chưa được bao lâu2, đang đối diện với những khó khăn chống chất do những di họa củ

Tin khác cùng chủ đề

Dấu ấn của những Tổng Bí thư gắn với những thắng lợi tiêu biểu của cách mạng Việt Nam (Kỳ 1)
Tháng 3 ở Ninh Vân!
Phát huy giá trị bộ bản đồ và tư liệu "Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý" trong công tác thông tin, tuyên truyền hiện nay
"Điện Biên Phủ - Trận đánh của thế giới"
KỶ NIỆM 49 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG TỈNH KHÁNH HÒA (2-4-1975 - 2-4-2024): TRANG SỬ HÀO HÙNG VÀ CHÓI LỌI
Nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Gửi bình luận của bạn