Ngay sau khi Chiến tranh thế giới II bùng nổ, Trung ương Đảng quyết định thay đổi chiến lược cách mạng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trước hết và chủ trương chuẩn bị những điều kiện tiến tới khởi nghĩa vũ trang. Theo tinh thần đó, Xứ ủy Nam Kỳ đã lên kế hoạch và lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa nhằm giành chính quyền về tay nhân dân. Khởi nghĩa Nam Kỳ thể hiện khát vọng độc lập tự do của nhân dân Việt Nam nói chung và nhân dân Nam Kỳ nói riêng. Bài viết tập trung làm rõ quá trình chuẩn bị, quyết tâm khởi nghĩa của Xứ ủy Nam Kỳ, sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và rút ra một số nhận xét.

Quyết tâm khởi nghĩa của Xứ ủy Nam Kỳ và sự chỉ đạo của Trung ương Đảng đối với cuộc khởi nghĩa
Quyết tâm khởi nghĩa của Xứ ủy Nam Kỳ và sự chỉ đạo của Trung ương Đảng đối với cuộc khởi nghĩa

1. Vấn đề khởi nghĩa vũ trang và quyết định đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trước tiên của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11-1939

Đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp, giành độc lập cho dân tộc luôn là ưu tiên hàng đầu của Đảng và việc sử dụng biện pháp đấu tranh vũ trang được Đảng xác định ngay từ đầu. Luận cương Chánh trị của Đảng tháng 10-1930 cho rằng: "Võ trang bạo động không phải là việc thường, chẳng những là theo hình thế trực tiếp cách mạng, mà lại phải theo khuôn phép nhà binh, cho nên cần phải chú ý. Trong khi không có tình thế trực tiếp cách mạng cũng cứ kịch liệt tranh đấu, nhưng kịch liệt tranh đấu ấy không phải là để tổ chức những cuộc manh động, hoặc là võ trang bạo động quá sớm, mà cốt là để huy động đại quần chúng ra thị oai, biểu tình bãi công, v.v., để dự bị họ về cuộc võ trang bạo động sau này"1. Như vậy, ngay từ đầu, Đảng đã xác định khởi nghĩa vũ trang phải có quá trình chuẩn bị để chờ thời cơ.

Sau này, khởi nghĩa vũ trang được nhắc tới trong các tài liệu của Đảng để ôn lại bài học của Khởi nghĩa Yên Bái, của việc sử dụng các đội tự vệ đỏ trong phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh; đồng thời, Đảng cũng khẳng định các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: khởi nghĩa vũ trang là hình thức cao nhất của đấu tranh giai cấp; chỉ với khởi nghĩa vũ trang mới giành được chính quyền.

Ngày 1-9-1939, Đức tấn công Ba Lan, mở đầu Chiến tranh thế giới II. Ngày 3-9-1939, các nước Anh, Pháp, Australia, New Zealand, Ấn Độ tuyên chiến với Đức. Ngày 26-9, Chính phủ Daladier ra sắc lệnh giải tán Đảng Cộng sản Pháp, đình chỉ các cơ quan chủ chốt của đảng là L'Humanite và Ce Soir2. Ngay sau đó, sắc lệnh này được áp dụng ở Đông Dương với các nghị định ngày 28-9 và 17-11 của Toàn quyền Đông Dương Catroux, lần lượt cấm tuyên truyền các khẩu hiệu của Quốc tế Cộng sản hay những tổ chức do Quốc tế Cộng sản; kiểm soát và tịch thu tài sản của Đảng Cộng sản Đông Dương3.

Từ ngày 6 đến 8-11-1939, tại Gia Định, Ban Trung ương Đảng họp hội nghị, nhận định cuộc chiến tranh đế quốc sẽ làm cho dân chúng bị áp bức ở các nước tham chiến thừa cơ nổi dậy. Ở các nước thuộc địa, hết thảy các dân tộc bị áp bức sẽ vùng dậy tranh đấu để vứt bỏ ách nô lệ. Chính phủ Pháp là thủ phạm phát động cuộc chiến tranh thế giới giữa các nước đế quốc; thực dân Pháp ở Đông Dương theo chế độ quân phiệt phát xít và mưu mô đầu hàng thỏa hiệp với phát xít Nhật. Tình hình mới đã “đặt ra trước mắt vấn đề sống còn của các dân tộc Đông Dương”4. Ban Trung ương nhận định các dân tộc Đông Dương “không có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập”5. Trong bối cảnh mới, Mặt trận dân chủ không còn thích hợp, phải thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương để tranh đấu chống chiến tranh đế quốc, đánh đổ thực dân Pháp và bọn phong kiến thối nát, giải phóng các dân tộc Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hội nghị nhấn mạnh: “Đảng phải cương quyết đứng ra lãnh đạo phong trào tranh đấu, khuếch trương phong trào thật mạnh mẽ và to rộng thêm lên. Phải biết xoay tất cả phong trào tranh đấu lẻ tẻ vào cuộc tranh đấu chung, phản đối đế quốc chiến tranh, chống đế quốc Pháp và bè lũ, dự bị những điều kiện bước tới bạo động làm cách mệnh giải phóng dân tộc”6.

2. Xứ ủy Nam Kỳ quyết định khởi nghĩa

Sau Hội nghị tháng 11-1939, tình hình quốc tế và trong nước có nhiều chuyển biến quan trọng tác động đến cách mạng Việt Nam.

Ngày 24-11-1939, quân Nhật chiếm được Nam Ninh (Trung Quốc), khống chế tuyến đường quan trọng chuyên chở hàng hóa cho Trung Quốc từ Việt Nam và trực tiếp uy hiếp Đông Dương.

Ngày 14-6-1940, quân Đức chiếm Paris. Ngày 22-6, Thủ tướng Pháp Pétain phải ký hiệp định đình chiến với Đức, rời Chính phủ về Vichy. Từ tháng 7, quân Nhật đưa tàu chiến vào Hải Phòng, duy trì một phái đoàn quân sự kiểm tra và kiểm soát ở Bắc Kỳ. Ngày 22-9, quân Nhật vượt biên giới Việt - Trung, tấn công quân Pháp ở Lạng Sơn, tiến vào Bắc Kỳ. Quân Pháp không chống cự nổi phải đầu hàng hoặc tháo chạy. Chính quyền Pháp ở Đông Dương phải chấp nhận các yêu cầu của quân Nhật. Nhân dân Đông Dương từ đây sống dưới ách “cộng trị” của phát xít Nhật và thực dân Pháp.

Nhân khi quân Nhật và quân Pháp bắn nhau ở Lạng Sơn, ngày 27-9, Đảng bộ huyện Bắc Sơn quyết định phát động khởi nghĩa. Tuy bị đàn áp và sớm phải chấm dứt, nhưng khởi nghĩa Bắc Sơn giúp cho Đảng có được cái nhìn thực tế hơn về khởi nghĩa vũ trang. Sau sự kiện này, Đảng phát truyền đơn kêu gọi nhân dân “hãy kết thành một khối thống nhất. Xiết chặt hàng ngũ dưới ngọn cờ “cứu nước, chống đế quốc” của Mặt trận nhân dân thống nhất phản đế Đông Dương ... Chúng ta hãy sẵn sàng để đấu tranh bằng vũ lực” và “tổ chức ra đội quân vũ trang của nhân dân. Chúng ta quyết đánh đuổi đế quốc Pháp ra khỏi đất nước ta”7.

Lợi dụng Pháp thua trận ở châu Âu và đang bị Nhật Bản lấn lướt ở Đông Dương, ngày 14-9-1940, Chính phủ Thái Lan tuyên bố mở chiến dịch đòi lại phần đất cũ từ Đông Dương thuộc Pháp. Ngày 20-10, Thủ tướng Thái Lan Luang Bipul Songgram tuyên bố quyết tâm giành lại lãnh thổ đã mất: “Mọi nỗ lực sẽ được thực hiện để đạt được mục tiêu này mà không cần dùng đến vũ lực, nhưng nếu vũ lực là không thể tránh khỏi, chiến tranh sẽ được tiến hành với ít đổ máu nhất"8. Cuối tháng 10 đầu 11-1940, chiến tranh Pháp - Thái nổ ra. Quân của Pháp, bao gồm cả binh lính người Việt, phải ra trận.

Ngay sau hội nghị tháng 11-1939, nhiều lãnh đạo cao cấp của Trung ương Đảng bị bắt: các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn bị bắt cùng ngày 17-1-1940, đồng chí Lê Hồng Phong bị bắt ngày 6-2-1940, đồng chí Hà Huy Tập bị bắt ngày 30-3-1940, đồng chí Võ Văn Tần bị bắt ngày 21-4-1940,... Ban Trung ương tan vỡ, chỉ còn đồng chí Phan Đăng Lưu đang hoạt động ở Nam Kỳ; đồng chí Nguyễn Ái Quốc và đồng chí Phùng Chí Kiên hoạt động ở nước ngoài.

Thực hiện Nghị quyết của Ban Trung ương Đảng, tháng 3-1940, Xứ ủy Nam Kỳ phát hành quyển Đề cương chuẩn bị bạo động. Theo đó, các đội quân cách mạng được tổ chức và luyện tập; nơi nơi rèn vũ khí thô sơ và cả hy vọng có được vũ khí hiện đại nhờ công tác địch vận9.

Ngày 23-4, tại một ngôi chùa ở Gò Vấp, Gia Định, mật thám Pháp phát hiện được một bản báo cáo của Ban binh vận gửi Xứ ủy Nam Kỳ về công tác điều tra nghiên cứu tình hình bố trí lực lượng của quân Pháp10. Kế hoạch bị lộ, quân Pháp đã chủ động đối phó với mũi binh vận của cuộc khởi nghĩa.

Từ ngày 21 đến ngày 27-7-1940, đồng chí Tạ Uyên, người thay đồng chí Võ Văn Tần - Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ đã bị bắt trước đó, triệu tập hội nghị Xứ ủy (mở rộng), họp tại Tân Hương (Châu Thành, Mỹ Tho). Tham dự Hội nghị có Ủy viên Trung ương Đảng Phan Đăng Lưu. Hội nghị kiểm điểm và đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa, quyết định về các khẩu hiệu cách mạng, việc tổ chức chính phủ lâm thời v.v.. Hội nghị bầu đồng chí Tạ Uyên làm Bí thư Xứ ủy thay đồng chí Võ Văn Tần. Tại Hội nghị, đồng chí Phan Đăng Lưu nhận trách nhiệm ra Bắc liên hệ với Đảng bộ Trung Kỳ và Bắc Kỳ bàn việc phối hợp hành động.

Ba ngày sau Hội nghị Tân Hương, ngày 30-7-1940, Nguyễn Hữu Tiến, Ủy viên Trung ương và Nguyễn Thị Minh Khai, Ủy viên Xứ ủy Nam Kỳ kiêm Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn bị bắt. Cảnh sát tìm thấy một tài liệu quan trọng là bản kế hoạch khá chi tiết về khởi nghĩa11.

Ngày 4-9-1940, Xứ ủy Nam Kỳ ra “Thông cáo đối với thời cuộc hiện tại”. Thông cáo cho rằng trước tình hình thế giới và trong nước, đặc biệt trước nguy cơ Đông Dương sắp biến thành chiến trường của phát xít Nhật, Đảng Cộng sản phải tập trung mọi lực lượng để đấu tranh chống Nhật Bản xâm lược và ráo riết chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang để giành lại chính quyền, theo đúng tinh thần nghị quyết của Trung ương". Thông cáo yêu cầu các đảng bộ địa phương phải có tinh thần khẩn trương và tinh thần hy sinh, đặt sự nghiệp cách mạng lên trên hết, v.v.. Thông cáo cho rằng Đảng phải đấu tranh để củng cố nội bộ, đánh đổ những xu hướng khuynh “tả” và khuynh “hữu” của một số đồng chí cho rằng bị khủng bố dữ dội, khó vận động được quần chúng đấu tranh, phải chờ cho có thời cơ khởi nghĩa hãy đưa quần chúng ra đấu tranh giành chính quyền. Xứ ủy Nam Kỳ cho rằng các đồng chí này "không hiểu rằng khởi nghĩa vũ trang là một hình thức đấu tranh cao nhất của quần chúng, và muốn thắng lợi phải có đông đảo quần chúng tham gia phong trào trong những điều kiện chủ quan và khách quan thuận lợi"12. Biểu hiện khuynh “hữu” được phân tích rõ trong Thông cáo thể hiện mong muốn tiến hành khởi nghĩa.

Từ ngày 21 đến 23-9, Bí thư Xứ ủy Tạ Uyên triệu tập Hội nghị đại biểu Nam Kỳ, tại Tân Xuân (Hóc Môn, Gia Định). Hội nghị phân tích tình hình thế giới, tình hình Đông Dương, thái độ của các giai cấp. Về tình hình của Đảng, Hội nghị cho rằng “lực lượng của đội tiền phong còn tương đối yếu. Đảng đã xây dựng được nhiều tổ chức trong quần chúng, nhưng các tổ chức đó chưa được củng cố, phong trào đấu tranh chưa thật mạnh mẽ, điều kiện chủ quan của khởi nghĩa chưa chín muồi”. Đồng thời, Hội nghị cũng dự kiến: “nếu có cơ hội, Đảng phải chủ trương khởi nghĩa đánh đổ đế quốc Pháp và đấu tranh chống phát xít Nhật”13. Hội nghị quy định tài liệu về cuộc khởi nghĩa (sắp tới) do các quận ủy phát. Lãnh đạo các quận ủy phải thảo luận kỹ những tài liệu đó và chỉ giao tài liệu cho những đồng chí thật giác ngộ, trung thành, dũng cảm và sẵn sàng quyết liệt đấu tranh. Hội nghị Tân Xuân đã quyết định chọn thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn “làm trọng điểm, là nơi phát lệnh khởi nghĩa chung cho toàn Nam Kỳ”14.

Như vậy, có thể thấy rằng Hội nghị Tân Xuân nhận định lực lượng khởi nghĩa còn tương đối yếu, phong trào đấu tranh chưa thật mạnh mẽ, song Hội nghị lại cho rằng nếu có cơ hội thì phải chủ trương khởi nghĩa.

Phan Đăng Lưu ra Bắc nhưng 3 tháng sau (từ ngày 6 đến ngày 9-11-1940) mới diễn ra Hội nghị Trung ương Đảng tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). Hội nghị đánh giá tình hình, tiếp tục khẳng định chủ trương chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, xác định kẻ thù của nhân dân không chỉ là đế quốc Pháp, mà là đế quốc phát xít Pháp và Nhật. Hội nghị nhận định: “chúng ta chưa đứng trước một tình thế trực tiếp cách mạng", nhưng "một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng: lĩnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập"15.

Hội nghị Trung ương quyết định 2 vấn đề quan trọng trước mắt là phát triển ảnh hưởng của Khởi nghĩa Bắc Sơn và hoãn cuộc khởi nghĩa vũ trang sắp nổ ra ở Nam Kỳ. Lực lượng vũ trang của khởi nghĩa Bắc Sơn sẽ được duy trì, phát triển, khi cần chiến đấu chống địch khủng bố, tiến tới thành lập căn cứ du kích do Trung ương trực tiếp chỉ đạo. Sau khi nghe đồng chí Phan Đăng Lưu báo cáo về tình hình Nam Kỳ và chủ trương của Xứ ủy Nam Kỳ, Hội nghị thấy điều kiện khách quan và chủ quan chưa chín muồi bảo đảm cho khởi nghĩa thắng lợi. Hội nghị giao cho đồng chí Phan Đăng Lưu trách nhiệm truyền đạt quyết định đình chỉ khởi nghĩa đến Xứ ủy Nam Kỳ. "Đảng bộ Nam Kỳ cần chờ tình hình phát triển ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, sẽ phát động khởi nghĩa theo kế hoạch chung của Trung ương"16.

Trong khi đó, ngày 15-11, Xứ ủy Nam Kỳ họp ở Hóc Môn nghe báo cáo và thảo luận về công tác chuẩn bị khởi nghĩa, về lực lượng quân sự, cách bố phòng của Pháp. Đa số ý kiến trong hội nghị cho rằng phát động khởi nghĩa lúc này là thuận lợi. Hội nghị quyết định phát động toàn Nam Kỳ nổi dậy “giành lấy chính quyền cách mạng về tay nhân dân17. Ngày 20-11, Thường vụ Xứ ủy Nam Kỳ họp khẩn cấp, hạ lệnh cho tất cả các nơi nổi dậy vào 24 giờ, ngày 22-11-194018.

Trên đường trở về Nam Kỳ, đồng chí Phan Đăng Lưu còn phải thực hiện nhiệm vụ phổ biến nghị quyết của Hội nghị Trung ương cho các cấp đảng bộ Trung Kỳ19. Ngày 22-11, đêm trước của cuộc khởi nghĩa, đồng chí Phan Đăng Lưu mới vào tới Sài Gòn và bị bắt.

Lệnh khởi nghĩa đã được ban hành tới các địa phương và cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra theo kế hoạch. Do có nội gián, kế hoạch khởi nghĩa bị lộ từ sớm, nên chính quyền thực dân đã có các biện pháp phòng chống. Ngày 22-11-1940, Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn Nguyễn Như Hạnh bị bắt vào buổi sáng và Bí thư Xứ ủy Tạ Uyên - Trưởng Ban khởi nghĩa của Xứ ủy, kiêm Trưởng ban khởi nghĩa Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn bị bắt vào buổi chiều. Cuộc họp của Ban khởi nghĩa Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn để nhận lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy, dự kiến vào 12 giờ cùng ngày đã không diễn ra. Chính quyền thực dân ra sức bắt bớ, vây ráp vì thế Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn không diễn ra khởi nghĩa.

Đêm 22 rạng ngày 23-11-1940, theo lệnh khởi nghĩa đã phát, nhân dân các tỉnh, thành phố ở Nam Kỳ nhất loạt nổi dậy, tập kích các đồn bốt, đánh một số quận lỵ. Tin tức về cuộc khởi nghĩa lập tức lan khắp thế giới. Báo Mỹ đưa tin: "Những người An Nam vũ trang, tìm cách gây bạo loạn, đã bao vây trại lính Đông Dương tại Sài Gòn vào ngày 22-11 nhưng đã bị bắt giữ … Chính phủ Đông Dương đã ban hành một thông cáo khẳng định rằng "các điệp viên Cộng sản" phải chịu trách nhiệm về cuộc bạo loạn”20.

Cụm Tượng đài Chiến sĩ vô danh hy sinh trong khởi nghĩa Nam K
tại 
Khu di tích Ngã Ba Giồng, Thành ph Hồ Chí Minh

Nghĩa quân cắt đường dây điện báo ngay từ ngày đầu khởi sự và mãi đến ngày 14-12 đường dây này mới được khôi phục21. Một số thị trấn (Mỹ Tho, Hiệp Hòa) vuột khỏi sự kiểm soát của người Pháp. Cờ đỏ sao vàng phất phới lần đầu tiên tại Cao Lãnh22. Chính quyền cách mạng được thành lập ở một số nơi. Tuy nhiên, do các điều kiện khởi nghĩa vũ trang chưa chín muồi, kế hoạch khởi nghĩa bị lộ nên thực dân Pháp đã đối phó kịp thời và đàn áp khốc liệt. Đến ngày 14-12, đã có 1.000 người bị bắt. Nhà giam hết chỗ nên chính quyền thực dân phải nhốt 400 người vào các tàu viễn dương ở cảng Sài Gòn chờ xét x23. Kết quả là “nhiều thị trấn bị không quân san bằng, sáu nghìn người bị bắt, tất cả các nhà tù không còn chỗ trống … Tại các bến nổi trên sông Sài Gòn, người ta chen chúc nhau, kẻ đứng, người ngồi, dây thép xâu qua tay người nọ vào với người kia, ban đêm có đèn pha chiếu sáng…”24. Không có số liệu thống nhất về thương vong, “nhưng con số gần như chắc chắn vượt quá hai nghìn. Lên đến tám nghìn bị giam giữ, một số sau đó chết trong tù hoặc bị xử tử”, trong khi đó phía chính quyền thực dân có “ba người Pháp và ba mươi lính hoặc các nhân vật có tiếng tăm của Việt Nam bị giết”25.  

Theo số liệu của Pháp, từ ngày 22-11-1940 đến hết ngày 31-12-1940, có 5.848 người bị bắt; trong tháng 1-1941, thêm 1.200 người bị bắt, nâng tổng số lên 7.048 người. Từ tháng 1-1941 đến hết năm, tòa án thực dân xét xử 2.258 người, trong số này có 158 người bị xử tử hình, 180 người chung thân, số còn lại bị kết án từ 5 năm đến 20 năm khổ sai26. Các lãnh đạo cao cấp của Đảng là Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Nguyễn Hữu Tiến, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Thị Minh Khai bị chính quyền thực dân mang ra xử tử với cáo buộc phải chịu trách nhiệm về tinh thần đối với cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Còn rất nhiều người hy sinh trong chiến đấu và trong các cuộc ném bom, càn quét,… của kẻ thù mà đến nay vẫn chưa thể thống kê hết. Đây là cuộc đàn áp quy mô và đẫm máu nhất kể từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam.

Bia ghi dấu cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai giành thắng lợi, 12-1940
 

3. Chỉ đạo của Trung ương Đảng sau khi Khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra

Không kịp hoãn một cuộc khởi nghĩa quy mô lớn đầu tiên, nhưng khi khởi nghĩa nổ ra, Ủy ban Thường trực Trung ương Đảng lập tức ra lời “Hiệu triệu các đồng chí cấp bộ Đảng Cộng sản Đông Dương”27. Ủy ban Thường trực nêu rõ: căn cứ vào lời báo cáo của đại biểu Xứ ủy Nam Kỳ trước Hội nghị Trung ương, thì Nam Kỳ đã đầy đủ điều kiện quan trọng của cuộc bạo động: Tư tưởng và đội ngũ của Đảng đã thống nhất; quần chúng đã hết sức chán ghét đế quốc Pháp; mong Đảng lãnh đạo để ra tranh đấu và đã tổ chức được nhiều cuộc biểu tình, mít tinh; Đảng bộ Nam Kỳ đạt được nhiều kết quả trong vận động binh lính, gây được nhiều tổ chức trong các đồn trại lớn và họ sẵn sàng khởi biến28.

Vì có những điều kiện trên, Ủy ban Thường trực nhận định: “cuộc võ trang bạo động ở Nam Kỳ là chắc có và phải có giữa lúc bọn quân phiệt Xiêm đã mở rộng mặt trận ở biên giới Cao Miên - Xiêm và đã đánh vào tới Biển Hồ (Le Grand Lac)” và “Đảng bộ Nam Kỳ đã dẫn đạo nhân dân ra oanh liệt hưởng ứng với Bắc Sơn đi đôi với Bắc Sơn chống lũ ăn cướp tham tàn Pháp - Nhật – Xiêm”29.

Vì cuộc khởi nghĩa đã nổ ra, “ngọn lửa cách mạng đã bốc cháy ở phía Bắc và phía Nam Đông Dương”, Ủy ban Thường trực chỉ rõ nhiệm vụ của Đảng bộ Nam Kỳ: “phải làm cho ngọn lửa đó cháy đến ở các tỉnh trung châu rồi bén sang dãy núi Hoành Sơn để thiêu đốt cả hệ thống thuộc địa của Pháp và đánh tan cuộc đế quốc chiến tranh ở trên bán đảo Đông Dương”30. Ủy ban Thường trực cũng chỉ ra những công việc cụ thể để thực hiện nhiệm vụ đó.

Cuối tháng 11 đầu tháng 12-1940, sau khi đọc tin về khởi nghĩa Nam Kỳ trên báo Quế Lâm, trong một cuộc họp, Nguyễn Ái Quốc nhận định: “Tình hình chung thế giới và Đông Dương ngày càng có lợi cho ta, nhưng thời cơ chưa đến, chưa thể khởi nghĩa được. Song nay đã nổ ra rồi thì cần phải rút lui cho khéo để duy trì phong trào”31. Người viết ngay một bức điện gửi Đảng bộ Nam Kỳ. Bức điện này không có cách nào chuyển được về nước32.

Đầu tháng 12-1940, Ban Thường vụ Trung ương lại gửi Thông cáo khẩn cấp đến các đảng bộ Trung, Bắc Kỳ. Thông cáo viết rõ các dân tộc Đông Dương đã đến lúc phải dùng khí giới giết quân thù để tự giải phóng mình. Nhiệm vụ của Đảng bộ Trung, Bắc Kỳ là phải lập tức tổ chức ra những cuộc hưởng ứng Nam Kỳ đặng gây thêm thanh thế cho quân bạo động, đặng phân chia lực lượng đế quốc không để chúng tập trung quân đội đàn áp phong trào cách mạng…33. Ban Thường vụ nhận định tình hình sau hơn 10 ngày khởi nghĩa, lực lượng cách mạng và lực lượng thống trị đương vật lộn nhau kịch liệt, nhưng sự hưởng ứng ở các nơi vẫn yếu, phần nhiều chưa nhận thức một cách cụ thể trách nhiệm hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ là thế nào. Thông cáo nhấn mạnh lúc này, một phút bỏ qua là một phút lợi cho quân thù tập trung lực lượng phá cách mạng, nên tiếp tục yêu cầu các cấp bộ Đảng thực cấp tốc thi hành những phương pháp hưởng ứng Bắc Sơn, Nam Kỳ: 1) Tổ chức những cuộc bãi công, bãi khóa, bãi thị ở thành phố cũng một ngày; 2) Phát động chiến tranh du kích, đánh úp các đồn trại, cướp khí giới, tổ chức các đội biệt động đánh phá đường sắt, cầu cống, ngăn cản quân thù; 3) Tổ chức những cuộc diễn thuyết ở những nơi có tập trung quần chúng; 4) Dùng các phương pháp tuyên truyền cổ động khác như truyền đơn, biểu ngữ, cờ băng, viết khẩu hiệu v.v.. 34.

Ngoài các văn bản nói trên, Trung ương Đảng còn ra nhiều truyền đơn kêu gọi các tầng lớp nhân dân, kêu gọi binh lính nổi dậy, noi gương chiến đấu của các chiến sĩ Thái Nguyên, Yên Bái, Bắc Sơn, “dưới lá cờ của Đảng Cộng sản Đông Dương xếp thành hàng ngũ tiến lên làm cách mạng dân tộc giải phóng”35.

Cũng vào đầu năm 1941, Trung ương Đảng cử Nguyễn Hữu Ngoạn, Nguyễn Hữu Xuyến và một nữ cán bộ tên Nam vào Nam Kỳ và đã liên lạc được với Phan Văn Khỏe, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ mới lập lại để nắm tình hình và truyền đạt ý kiến của Trung ương. Nhưng sau đó Xứ ủy mới lại lần lượt bị bắt nên Trung ương Đảng lại đứt liên lạc với Đảng bộ Nam Kỳ36.

4. Nhận xét

Khởi nghĩa Nam Kỳ là cuộc đấu tranh vũ trang giành chính quyền lớn nhất trong lịch sử chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam kể từ sau khởi nghĩa Trương Định (cuối thế kỷ XIX). Đây là cuộc khởi nghĩa do Xứ ủy Nam Kỳ phát động và lãnh đạo dựa trên chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trước của Trung ương Đảng. Quy mô của cuộc khởi nghĩa thể hiện khát vọng độc lập tự do của nhân dân Nam Kỳ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung, thể hiện lòng tin của nhân dân đối với Đảng, uy tín của những người cộng sản đối với quần chúng nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Khởi nghĩa Nam Kỳ cho những người cộng sản thấy rõ sức mạnh “lật thuyền” như nước của nhân dân. Vì thế, Đảng phải luôn gắn bó máu thịt với dân, vì dân, “lấy dân làm gốc”.

Quy mô lớn, quyết tâm cao nhưng vẫn thất bại và bị đàn áp tàn khốc nhất nên khởi nghĩa Nam Kỳ mang lại những bài học thực tiễn rất sâu sắc và nghiêm khắc về khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Đó là những bài học về chuẩn bị lực lượng; về lựa chọn thời cơ; về sự phối hợp giữa các địa phương; về khởi nghĩa từng phần nhưng không đơn độc; về yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo thông suốt, thống nhất từ Trung ương đến địa phương; về phòng gian bảo mật, v.v.. Những bài học đó vô cùng quý giá cho Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng về sau.

Trước những thay đổi mau lẹ của tình hình, Đảng Cộng sản Đông Dương đã quyết định thay đổi chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết và chuẩn bị các điều kiện để tiến tới đấu tranh vũ trang giành độc lập. Quyết định khởi nghĩa của Xứ ủy Nam Kỳ dựa vào tinh thần của Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11-1939. Khi cuộc khởi nghĩa đã nổ ra vì không kịp nhận được quyết định đình chỉ, Trung ương Đảng đã nhanh chóng kêu gọi và có những chỉ đạo cụ thể để cả nước ủng hộ, "chia lửa" với Nam Kỳ. Tuy thất bại nhưng cùng với khởi nghĩa Bắc Sơn và cuộc binh biến Đô Lương - Chợ Rạng ngay sau đó, khởi nghĩa Nam Kỳ cho Đảng những bài học xương máu, quý giá về khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.



Ngày nhận bài: 20-10-2025; ngày thẩm định, đánh giá: 26-10-2025; ngày duyệt đăng: 7-11-2025

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb, CTQG, H, 2002, T. 2, tr. 102

2. “France outlaws communist party”, By John Elliott, The Washington Post, 27 Sep, 1939, Retrieved from https://www.proquest.com/newspapers/french-outlaw-communist-party-suppress-papers/docview/151147638/se-2

3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Tập I (1930-1954), Quyển 1 (1930-1945), CTQGST, H, 2018, tr. 482-483

TS Trần Trọng Thơ: Xây dựng cơ quan lãnh đạo cấp Trung ương, Xứ ủy của Đảng thời kỳ 1930-1945, CTQG, H, 2014, tr. 170

4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb, CTQG, H, 2000, T. 6, tr. 536, 536, 552

7. Truyền đơn của Đảng Cộng sản Đông Dương, Tư liệu Viện Lịch sử Đảng, ký hiệu II3/2/11.12

8. “Thailand's demands pressed by Premier”, The New York Times, October 21, 1940, p. 5

9. Trần Văn Giàu: Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh, Quyển I, Nxb KHXH, H, 2003, tr. 1478

10, 11, 14, 16, 17, 18, 19, 26, 36. Trần Giang: Nam Kỳ khởi nghĩa, Nxb, CTQG, H,1996, tr. 36, 56, 39, 74, 74, 78, 74, 302-304, 281

12. Thông cáo của Xứ ủy Nam Kỳ đối với thời cuộc hiện tại, ngày 4-9-1940, Tư liệu Viện Lịch sử Đảng, ký hiệu X3/11.1

13. Nghị quyết của cuộc toàn xứ đại biểu hội nghị ngày 21, 22 và 23-9-1940 (Nam Kỳ), Tư liệu Viện Lịch sử Đảng, Ký hiệu X3/11.2.

15, 27, 28, 29, 30, 33, 34, 35. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb, CTQG, H, 2000, T. 7, tr. 58, 85, 85-86, 86, 86, 88, 89-92, 94

20. “Japanese Report Saigon Riot”, The New York Times, November 25, 1940, p. 8

21, 23. The New York Times, Sunday, December 15, 1940, p. 7, p. 7

22, 24. Lê Thành Khôi: Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, Nxb Thế Giới, H, 2014, tr. 550, 550

25. Gluckstein, Donny. "Vietnam – Anti-Imperialist Breakthrough." In A People's History of the Second World War: Resistance Versus Empire, 193-206. London: Pluto Press, 2012. Accessed October 8, 2020. doi:10.2307/jctt183p5p8.19

31, 32. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử, Nxb, CTQG, H, 2016, T. 2, tr. 108.

TS LƯƠNG VIẾT SANG
Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1. Vấn đề khởi nghĩa vũ trang và quyết định đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trước tiên của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11-1939 Đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp, giành độc lập cho dân tộc luôn là ưu tiên hàng đầu của Đảng và việc sử dụng biện pháp đấu tranh vũ trang được Đảng xác định ngay từ đầu. Luận cương Chánh trị của Đảng tháng 10-1930 cho rằng: "Võ trang bạo động không phải là việc thường, chẳng những là theo hình thế trực tiếp cách mạng, mà lại phải theo khuôn phép nhà binh, cho nên cần phải chú ý. Trong khi không có tình thế trực tiếp cách mạng cũng cứ kịch liệt tranh đấu, nhưng kịch liệt tranh đấu ấy không phải là để tổ chức những cuộc manh động, hoặc là võ trang

Tin khác cùng chủ đề

Dấu ấn của những Tổng Bí thư gắn với những thắng lợi tiêu biểu của cách mạng Việt Nam (Kỳ 1)
Tháng 3 ở Ninh Vân!
Phát huy giá trị bộ bản đồ và tư liệu "Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý" trong công tác thông tin, tuyên truyền hiện nay
"Điện Biên Phủ - Trận đánh của thế giới"
KỶ NIỆM 49 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG TỈNH KHÁNH HÒA (2-4-1975 - 2-4-2024): TRANG SỬ HÀO HÙNG VÀ CHÓI LỌI
Nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Gửi bình luận của bạn