Sau Cách mạng Tháng Tám 1945 và trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trong tình thế phải đối mặt với kẻ thù lớn mạnh hơn rất nhiều, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tính toán kỹ lưỡng từng bước đi, tranh thủ từng phút giây quý giá để xây dựng lực lượng, chuẩn bị kháng chiến. Việc ký kết những hiệp định hòa bình vào giai đoạn đầu và cuối cuộc kháng chiến chống Pháp (Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 và Hiệp định Giơnevơ 20-7-1954) đã chứng minh những nỗ lực, thành quả ngoại giao đó hoàn toàn phù hợp với bối cảnh lịch sử cụ thể - đó là việc giành thắng lợi từng bước trong đấu tranh ngoại giao trước kẻ thù không cân sức, điều mà sau này đã trở thành một phần của nghệ thuật giành thắng lợi từng bước trong chiến tranh cách mạng Việt Nam.

Thời điểm phù hợp và thắng lợi của Hiệp định Sơ bộ và Hiệp định Giơnevơ
Thời điểm phù hợp và thắng lợi của Hiệp định Sơ bộ và Hiệp định Giơnevơ

1. Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946

Trước và sau cuộc đàm phán và ký Hiệp định Sơ bộ giữa ta với Pháp, các quan điểm trái chiều, thiếu căn cứ của phái Tờrốtkít và lực lượng phản động Việt quốc, Việt cách... cho rằng: Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh có tư tưởng “bán nước”, “đầu hàng”. Lúc này, các lực lượng phản động làm ra vẻ cách mạng và yêu nước nhất, kêu gọi, “không điều đình với ai hết”, “đánh đến cùng”, “thắng hay là chết”. Âm mưu của các thế lực phản động là đẩy cách mạng Việt Nam còn non trẻ nhanh chóng rơi vào cuộc đối đầu với thực dân Pháp. Lợi dụng lúc ta đánh Pháp, các thế lực phản động sẽ đứng ra thành lập Chính phủ bù nhìn, vu cáo Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chống hiệp ước của Đồng Minh, là phiến loạn, phản hòa bình. Quân đội Trung Hoa dân quốc sẽ nấn ná ở lại, tiếp tục âm mưu tiêu diệt cách mạng Việt Nam. Lực lượng phản động Việt quốc, Việt cách tiếp tục núp bóng quân đội Quốc dân Đảng Trung Hoa, thực hiện các âm mưu thâm độc của chúng. Đây là chủ trương có tính chất xuyên suốt của lực lượng phản động Việt quốc, Việt cách. Ngay sau khi Việt Nam và Pháp ký Hiệp định Sơ bộ, các phần tử phản động muốn đẩy Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào chiến tranh với Pháp bằng âm mưu tổ chức vụ ném lựu đạn vào đội ngũ duyệt binh của quân đội Pháp nhân ngày Quốc khánh Pháp 14 -7-1946.

Luận điệu hiếu chiến của các lực lượng phản cách mạng không phải không lừa mị được một bộ phận quần chúng, những người có tinh thần yêu nước nhưng không thấy rõ tình hình phức tạp sau Cách mạng Tháng Tám. Họ chỉ thấy rằng, tại sao Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lại ký kết hiệp định hòa bình với Pháp trong khi thực dân Pháp đang ra sức mở rộng chiến tranh và tàn sát dã man đồng bào, chiến sĩ ta ở nhiều địa phương trên cả nước, nhất là ở Nam Bộ. Chính vì thế, ngày 7-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bất ngờ xuất hiện và nói chuyện trước hàng chục vạn nhân dân Thủ đô để giải thích về việc ký Hiệp định Sơ bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tôi, Hồ Chí Minh, suốt cuộc đời cùng đồng bào chiến đấu cho độc lập của Tổ quốc. Tôi thà chết chứ không bao giờ bán nước”1

Ngoài các thế lực phản động với mưu đồ đen tối, khuynh hướng “tả” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng không muốn hòa hoãn với Pháp, xuất phát từ lòng yêu nước và chí căm thù giặc sâu sắc, nhưng nông nổi, không căn cứ vào bối cảnh lịch sử và so sánh lực lượng giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và kẻ thù lúc đó. Thù trong, giặc ngoài, tuy còn có những mâu thuẫn với nhau về quyền lợi, nhưng đều có những toan tính của riêng mình và đều muốn bóp chết nền cộng hòa còn non trẻ. Thực dân Pháp, kẻ thù chính của nhân dân Việt Nam, luôn chiếm ưu thế tuyệt đối về vũ khí, ngay trong những ngày đầu sau Cách mạng Tháng Tám cũng như trong suốt 9 năm kháng chiến2

Trước những luận điệu xuyên tạc, phản động của kẻ thù; phần lớn đồng bào, chiến sĩ, cán bộ đảng viên sôi sục muốn kháng chiến, Trung ương Đảng giải thích: “Vấn đề lúc này, không phải là muốn hay không muốn đánh. Vấn đề là biết mình biết người, nhận một cách khách quan những điều kiện lời lãi trong nước và ngoài nước mà chủ trương cho đúng”3.

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đàm phán và ký Hiệp định Sơ bộ với Pháp trong bối cảnh tình hình chính trị vô cùng phức tạp, cách mạng Việt Nam đang ở thế “nghìn cân treo sợi tóc”. Trong nước, cùng một lúc, cách mạng Việt Nam phải đối phó với nhiều kẻ thù lớn mạnh: quân Pháp, quân Anh, quân Trung Hoa dân quốc và những thế lực phản động người Việt theo sau chúng. Chưa bao giờ trên mảnh đất Việt Nam nhỏ bé lại có nhiều đội quân nước ngoài đến như vậy. Các đảng phái chính trị của những lực lượng phản động trong nước cũng mọc ra như nấm sau mưa. Hoạt động của các thế lực phản động trong Quốc hội và Chính phủ liên hiệp gây cho ta những khó khăn nhất định. Pháp được tăng cường lực lượng từ chính quốc và đang tiến công đánh chiếm nhiều nơi. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ đang gặp nhiều khó khăn. Về kinh tế, thiếu lương thực gay gắt, hậu quả nạn đói năm 1945 càng nặng nề. Về bối cảnh quốc tế, Liên Xô và các lực lượng dân chủ, tiến bộ trên thế giới chưa công nhận và chưa thể trực tiếp giúp đỡ cách mạng Việt Nam. Chính phủ Pháp và Chính phủ Trung Hoa dân quốc đã tạm thời hòa hoãn bằng Hiệp ước Pháp-Hoa. Đó là những điều bất lợi vô cùng lớn, nếu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không đàm phán mà chấp nhận chiến đấu ngay.

Cân nhắc tình hình, tương quan lực lượng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương đàm phán với Pháp, chấp nhận nhượng bộ trên một số vấn đề, kể cả vấn đề được cho là cốt lõi, để đổi lấy hòa bình, để không phải sớm bước vào cuộc chiến đấu không cân sức.

Việc ký Hiệp định Sơ bộ trong bối cảnh đó là thắng lợi ngoại giao quan trọng đầu tiên của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thể hiện thiện chí và tinh thần mong muốn hòa bình của nhân dân Việt Nam. Chính phủ Pháp phải công nhận quyền tự chủ và thống nhất đất nước của Việt Nam. Chính phủ Pháp thừa nhận Việt Nam là một đất nước tự do, không còn là thuộc địa của Pháp. Đây là một thắng lợi vô cùng quan trọng. Chính vì vậy, phát biểu trước đồng bào Thủ đô ngày 7-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho rằng: “Cuộc điều đình với nước Pháp sẽ mở ra con đường làm cho quốc tế thừa nhận ta. Nó sẽ dẫn ta đến một vị trí ngày càng chắc chắn trên trường quốc tế. Đó là một thắng lợi lớn về mặt chính trị. Chúng ta đã trở thành một quốc gia tự do trên thế giới... Chúng ta luôn coi người Trung Hoa là anh em. Chúng ta có nhiều bè bạn... ”4.

Hiệp định Sơ bộ được ký kết, đã góp phần phá tan âm mưu của quân đội Quốc dân Đảng Trung Hoa và các lực lượng tay sai người Việt, muốn đẩy cách mạng Việt Nam sớm rơi vào thế bị cô lập hoàn toàn. Với việc ký kết Hiệp định, đã tạo tiền đề, để Việt Nam “đẩy” nhanh gần 20 vạn quân Trung Hoa dân quốc ra khỏi đất nước, bớt đi một nguy cơ bất ổn về chính trị và gánh nặng về kinh tế. Khi quân Trung Hoa dân quốc rút đi, lực lượng tay sai mất chỗ dựa, trở nên yếu thế so với cách mạng Việt Nam, nhiều phần tử phản động chủ chốt lo sợ và bỏ chạy theo quân Trung Hoa dân quốc.

Với việc ký Hiệp định Sơ bộ, cách mạng Việt Nam có thêm thời gian, dù là không dài, để khôi phục và xây dựng cơ sở cách mạng trong vùng địch chiếm ở miền Nam, xây dựng và phát triển thực lực chính trị và vũ trang ở miền Bắc. Chỉ trong một thời gian ngắn khoảng 9 tháng, tranh thủ môi trường hòa bình tương đối do Hiệp định Sơ bộ đem lại, quân và dân Việt Nam đã thực hiện được rất nhiều công việc quan trọng, có ý nghĩa lâu dài như xây dựng lực lượng cách mạng, trấn áp những lực lượng phản cách mạng. Về lực lượng chính trị, trong thời gian này, đã tranh thủ mở rộng mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất, thành lập nhiều tổ chức của các tầng lớp nhân dân như Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, Tổng Công đoàn Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, đoàn kết các dân tộc thiểu số Việt Nam, các lực lượng hoạt động văn hóa, nghệ thuật... Về lực lượng vũ trang, đã xây dựng Quân đội quốc gia của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chỉ trong một thời gian ngắn, đưa lên 80.000 bộ đội thường trực và gần 1.000.000 dân quân, tự vệ ở hầu khắp các địa phương, ngày đêm tập luyện, ra sức nâng cao trình độ chiến đấu. Những việc làm đó đúng theo của chủ trương của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: “Điều cốt tử là trong khi mở cuộc đàm phán với Pháp, không những không ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào và ở đâu, mà còn hết sức xúc tiến việc sửa soạn ấy, và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc ta”5.

Trong chỉ thị “Hòa để tiến” ngày 9-3-1946, Trung ương Đảng giải thích rõ: “Chúng ta hòa với Pháp để: (1), Tránh tình thế bất lợi: phải cô lập chiến đấu cùng một lúc với nhiều lực lượng phản động (thực dân Pháp, Tàu trắng, bọn phản cách mạng trong nước), chúng sẽ đúc thành một khối và được bọn đế quốc Anh, Mỹ giúp sức để đánh ta trong khi các lực lượng hb (hòa bình-BBT), tự do và tiến bộ trên thế giới (như Liên Xô, phong trào cộng sản ở Tàu và Pháp, cách mạng thuộc địa) chưa thể trực tiếp giúp ta được... (2), Bảo toàn thực lực dành lấy giây phút nghỉ ngơi và củng cố vị trí mới đã chiếm được, chấn chỉnh đội ngũ cách mạng, bổ sung cán bộ, bồi dưỡng và củng cố phong trào. Tóm lại, để chuẩn bị đầy đủ, nhằm cơ hội tốt tiến lên giai đoạn cách mạng mới”6.

Với chủ trương “Hòa để tiến”, đánh dấu bằng Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946, Việt Nam đã thoát khỏi tình thế phải đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc. Trong khoảng gần 1 năm có hòa bình tương đối đó, Đảng đã khẩn trương lãnh đạo xây dựng thực lực để vững vàng và chủ động phát động cuộc kháng chiến toàn quốc. Thực tế lịch sử đã chứng minh, ký kết Hiệp định Sơ bộ là một thắng lợi ngoại giao quan trọng đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong chủ trương cũng như trong thực tiễn cách mạng sau Cách mạng Tháng Tám, chủ trương “hòa để tiến” của Đảng đã tạo điều kiện cho cách mạng Việt Nam những bước tiến vượt bậc trong thời gian tương đối ngắn.  

2. Hiệp định Giơnevơ

Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu thay mặt Chính phủ và Bộ Tổng tư lệnh
Quân đội nhân dân Việt Nam ký Hiệp định đình chiến ở Việt Nam, n
gày 20-7-1954

 

Chiến dịch Điện Biên Phủ là một thắng lợi lớn, “chấn động địa cầu”. Sau Chiến dịch Điện Biên Phủ, diễn biến chung trên chiến trường là cách mạng Việt Nam đang ở thế tiến công mạnh mẽ. Kế hoạch Navarre đã thất bại. Hơn 70% diện tích và hơn 50% dân số Việt Nam được giải phóng khỏi ách chiếm đóng của Pháp7. Chính vì thế, có quan điểm cho rằng, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có đầy đủ thế và lực tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn ngay trong những năm 1954-1955.

Nhưng mọi việc không đơn giản và dễ dàng như vậy.

Trên phương diện quốc tế, từ sau Chiến tranh thế giới II và nhất là sau chiến tranh Triều Tiên, thế giới đang bước vào xu thế hòa hoãn. Việc ký kết hiệp định ngừng chiến, hòa bình, chia đôi đất nước đã có tiền lệ là nước Đức năm 1945 và Triều Tiên năm 1953. Hội nghị Giơnevơ lúc đầu không chủ định bàn về vấn đề Đông Dương, nhưng sau đó, cùng với chiến thắng vang dội trên chiến trường và dư luận tiến bộ trên thế giới đấu tranh, nhất là dư luận tiến bộ của Pháp rất mạnh mẽ, yêu cầu Chính phủ phải nhanh chóng giải quyết dứt điểm vấn đề Đông Dương8, Hội nghị chuyển sang bàn vấn đề Đông Dương và dần dần trở thành nội dung chính của Hội nghị.

Hai đồng minh quan trọng của Việt Nam là Liên Xô và Trung Quốc, xuất phát từ lợi ích dân tộc của mỗi nước, đang theo đuổi xu thế hòa hoãn, muốn kết thúc cuộc chiến tranh ở Đông Dương, không muốn tiếp tục giúp đỡ Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài và giành thắng lợi cao hơn nữa. Trung Quốc “không thể viện trợ thêm cho Việt Minh được nữa”9 vì con đường phù hợp với lợi ích của Trung Quốc là cùng tồn tại hòa bình.

Sau thất bại tại Điện Biên Phủ, lực lượng của Pháp trên toàn chiến trường bị tiêu hao khá nhiều. Ngay trên chiến trường chính Bắc Bộ, Pháp đã phải rút bỏ nhiều vị trí quan trọng, chuyển về thế phòng ngự. Tinh thần của binh lính Pháp, kể cả binh lính lê dương, xuống rất thấp. Tuy nhiên, tương quan lực lượng lúc này không cho phép Việt Nam đẩy mạnh phản công. Lực lượng địch trên bán đảo Đông Dương và Việt Nam còn rất lớn. Trước trận Điện Biên Phủ, bộ đội chủ lực Việt Nam chỉ có 290.000 người, với biên chế 127 tiểu đoàn, còn phía Pháp và Quốc gia Việt Nam có 444.900 quân, trong đó có 124.600 quân viễn chinh Pháp, với biên chế 267 tiểu đoàn10. Quân số Pháp bị loại khỏi vòng chiến đấu tại Điện Biên Phủ là 16.200 quân, chỉ chiếm khoảng 4% binh lực của Pháp trên toàn Đông Dương. Trong khi đó, Việt Nam đã dốc gần như toàn lực cho trận đánh quyết định này với 5/6 đại đoàn chủ lực tham chiến, chiến đấu ác liệt trong một thời gian dài, tỷ lệ thương vong lớn, cần phải được củng cố.

Căn cứ điều kiện cụ thể cuộc kháng chiến, căn cứ so sánh lực lượng giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp, theo xu thế chung giải quyết các cuộc xung đột trên thế giới bằng thương lượng; căn cứ thực trạng mối quan hệ giữa các nước lớn tham dự Hội nghị, nhất là giữa Trung Quốc, Liên Xô với Việt Nam lúc đó, đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp nhận ký Hiệp định.

Bộ Chính trị cho rằng, “Giải pháp Giơnevơ... ta phải chấp nhận vì không thể một mình kiên trì chiến tranh, nhất là phải trực tiếp đương đầu với Mỹ”11. “Ký Hiệp định Giơnevơ là đúng lúc, kết thúc kháng chiến chống Pháp là phù hợp, phản ánh đúng so sánh lực lượng trên chiến trường và hoàn cảnh quốc tế lúc đó”12.

Quân đội nhân dân Việt Nam đã bị tiêu hao nhiều, sức chiến đấu giảm sút, khả năng đóng góp của nhân dân cũng đã cạn kiệt, việc đẩy mạnh phản công trên toàn quốc chắc chắn sẽ khó khăn, dù có giành thắng lợi trên chiến trường rừng núi, nhưng việc tiến công ở đồng bằng và thành phố không hề đơn giản13. Ở hậu phương, việc thực hiện triệt để giảm tô và cải cách ruộng đất, với những hạn chế và sai lầm ngay từ đầu, đã bắt đầu tác động xấu đến khối đại đoàn kết ở nông thôn, ảnh hưởng đến việc phát triển sản xuất. Ở vùng tự do như Thanh Hóa, việc huy động sức dân quá mức để chi viện cho mặt trận Điện Biên Phủ đã khiến cho sức dân cạn kiệt, tình trạng thiếu đói đã trở nên trầm trọng, thậm chí một số nơi bắt đầu có người chết đói. Chính vì thế, ngay sau khi giải phóng miền Bắc, trong vụ mùa năm 1954, nhiệm vụ chống đói được đặt ra cấp bách đối với nhiều địa phương ở vùng tự do trước đây.

Mỹ đang can thiệp ngày càng sâu và lăm le thay chân Pháp ở Đông Dương. Nếu âm mưu quyết tâm thay chân Pháp ở Đông Dương của Mỹ là hiện thực thì khi ta tổng tiến công ở đồng bằng nếu giành thắng lợi lớn, không loại trừ khả năng Mỹ sẽ ngay lập tức đưa quân vào Việt Nam, như đã từng đưa quân vào cứu nguy chế độ chính trị ở Cộng hòa Triều Tiên, chặn đứng đà thắng lợi của quân đội Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.

Như đã phân tích, bối cảnh lịch sử trong nước và quốc tế lúc đó dẫn đến việc ký kết Hiệp định Giơnevơ là khó tránh khỏi. Mặc dù những nội dung cơ  bản của hiệp định không đạt được những yêu cầu chính trị do Chính phủ ta đặt ra và chưa đáp ứng được tâm tư, nguyện vọng của đông đảo cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ta14, nhưng việc ký kết Hiệp định Giơnevơ vẫn là một thắng lợi chứ không phải là một bước lùi hay một thất bại như một số ý thiếu căn cứ khoa học. Miền Bắc được giải phóng, đó là một thắng lợi rất lớn. Thiện chí hòa bình của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được dư luận quốc tế hoan nghênh. Sau 9 năm chiến đấu gian khổ, nhân dân Việt Nam có hòa bình. Trong bối cảnh trong nước và quốc tế lúc đó, hòa bình là khát vọng được người dân Việt Nam và thế giới mong đợi, ai chủ trương chiến tranh, kẻ đó bị cô lập.

Nếu Điện Biên Phủ là một thắng lợi to lớn về quân sự thì Hiệp định Giơnevơ là một thắng lợi quan trọng về ngoại giao. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9-1960) nêu rõ: “Việc lập lại hòa bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc Việt Nam, và đặt cơ sở pháp lý cho việc thống nhất nước Việt Nam là một thắng lợi to lớn của nhân dân ta... Nó phản ánh tình hình lực lượng so sánh ở Đông Dương và trên thế giới lúc bấy giờ. Thắng lợi đó không những tạo ra khả năng để thực hiện hòa bình thống nhất nước ta trên cơ sở độc lập và dân chủ, mà còn tạo những điều kiện thuận lợi cho cách mạng ở miền Bắc tiến lên một giai đoạn mới”15.

Trong đấu tranh ngoại giao, xuất phát từ vị thế quốc gia, từ thực lực cách mạng, từ kinh nghiệm đàm phán quốc tế, việc ký kết Hiệp định Sơ bộ năm 1946 và Hiệp định Giơnevơ năm 1954 là phù hợp, là thắng lợi trong thời điểm lịch sử cụ thể. Giành thắng lợi từng bước, trong đấu tranh ngoại giao hay đấu tranh quân sự, đã trở thành quy luật tiến lên của cách mạng Việt Nam.

 

Bài đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng (in), số 3/2021

1, 4. Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb CTQG, H, 1994, tr. 373, 373

2. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tương quan lực lượng giữa ta và địch chênh lệch rất nhiều, đặc biệt về vũ khí luôn nghiêng hẳn về phía địch. Xem sách Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945- 197-  Thắng lợi và bài học, Nxb. CTQG, H, 2000, tr. 487

3, 5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, T. 8, tr. 43-44, 46, 49

7. Lê Mậu Hãn (Chủ biên), Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư: Đại cương lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998, tập III, tr. 103

8. Chính phủ Pháp do M.Phrăngxơ làm Thủ tướng (lên thay Chính phủ của Thủ tướng Laniel bị đổ sau khi Điện Biên Phủ thất thủ) cam kết với Quốc hội và nhân dân Pháp sẽ giải quyết nhanh vấn đề Đông Dương, lập lại hòa bình trong vòng 1 tháng, nên các văn bản Hiệp định đều được ghi vào ngày 20-7 mặc dù khi ký kết đã chuyển sang ngày 21-7-1954

9. Phơrăngxoa Gioayô: Trung Quốc với việc giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1981, tr. 109

10. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, H, 2018, T. 1, Q. 2, tr. 478

11. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp -Thắng lợi và bài học, Nxb CTQG, H. 1996, tr. 216-217

12. Kết luận của Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương năm 1988

13. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sau này, quân và dân miền Nam tiến hành tổng tiến công và nổi dậy tại các thành phố, thị xã, thị trấn của địch, trong khi Mỹ và đồng minh còn hơn 1 triệu quân, đã xây dựng thế trận phòng thủ vững chắc, việc giành thắng lợi theo khả năng cao nhất là không thể

14. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng với so sánh lực lượng trên chiến trường thì ranh giới tạm thời ở vĩ tuyến 13 là hợp lý, vĩ tuyến 17 đối với Việt Nam là không thể chấp nhận được, mà ít nhất cũng phải là vĩ tuyến 16, như Đồng minh đã chọn khi phân chia khu vực giải giáp vũ khí phát xít Nhật ở Đông Dương sau Chiến tranh thế giới thứ II. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị thời hạn tổng tuyển cử là 6 tháng. Thủ tướng Chu Ân Lai khẳng định sẽ cùng đoàn Liên Xô cố gắng thực hiện ý kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng nếu việc đấu tranh xác định ranh giới có gặp khó khăn, đề nghị được linh hoạt về vĩ tuyến. Cuối cùng, vĩ tuyến 17 đã được chọn

15. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2002, T. 21, tr. 502.

TS NGUYỄN BÌNH
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1. Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 Trước và sau cuộc đàm phán và ký Hiệp định Sơ bộ giữa ta với Pháp, các quan điểm trái chiều, thiếu căn cứ của phái Tờrốtkít và lực lượng phản động Việt quốc, Việt cách... cho rằng: Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh có tư tưởng “bán nước”, “đầu hàng”. Lúc này, các lực lượng phản động làm ra vẻ cách mạng và yêu nước nhất, kêu gọi, “không điều đình với ai hết”, “đánh đến cùng”, “thắng hay là chết”. Âm mưu của các thế lực phản động là đẩy cách mạng Việt Nam còn non trẻ nhanh chóng rơi vào cuộc đối đầu với thực dân Pháp. Lợi dụng lúc ta đánh Pháp, các thế lực phản động sẽ đứng ra thành lập Chính phủ b&

Tin khác cùng chủ đề

Dấu ấn của những Tổng Bí thư gắn với những thắng lợi tiêu biểu của cách mạng Việt Nam (Kỳ 1)
Tháng 3 ở Ninh Vân!
Phát huy giá trị bộ bản đồ và tư liệu "Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý" trong công tác thông tin, tuyên truyền hiện nay
"Điện Biên Phủ - Trận đánh của thế giới"
KỶ NIỆM 49 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG TỈNH KHÁNH HÒA (2-4-1975 - 2-4-2024): TRANG SỬ HÀO HÙNG VÀ CHÓI LỌI
Nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Gửi bình luận của bạn