Căn cứ địa cách mạng là một yếu tố chiến lược trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam. Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự, vấn đề xây dựng và phát huy căn cứ địa cách mạng được xác định là nhân tố quyết định đến thắng lợi của cách mạng. Bài viết phân tích nội hàm tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa cách mạng, làm rõ giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa cách mạng – giá trị lý luận và thực tiễn
Tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa cách mạng – giá trị lý luận và thực tiễn

1. Đặt vấn đề

Chủ tịch Hồ Chí Minh – nhà chiến lược thiên tài, nhà quân sự xuất sắc của dân tộc Việt Nam. Người để lại di sản tư tưởng – lý luận quân sự có giá trị vô cùng to lớn cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta; trong đó, tư tưởng về căn cứ địa cách mạng không chỉ là bài học thành công trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc mà còn mang nhiều giá trị sâu sắc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa cách mạng là một trong những nhân tố tạo tiền đề quyết định đưa Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi; cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn tranh được độc lập thì phải tiến hành một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Muốn khởi nghĩa phải có căn cứ địa, muốn kháng chiến phải có hậu phương”1.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa cách mạng 

Trong tác phẩm Chiến thuật du kích, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định căn cứ địa cách mạng là nơi mà “Đội du kích trong lúc hoạt động đánh quân thù cần có một vài nơi đứng chân làm cơ sở. Tại nơi ấy, đội du kích tích trữ lương thực, thuốc đạn, lâu lâu về đó nghỉ ngơi, luyện tập. Nơi ấy phải có địa thế hiểm yếu che chở và quần chúng cảm tình ủng hộ”2. Theo đó, căn cứ địa cách mạng là những vùng đất có địa thế thuận lợi, lực lượng chính trị vững mạnh, có khả năng tự lực về hậu cần và là nơi tập trung, bảo vệ và phát triển lực lượng cách mạng. Đó là nơi xuất phát và phát triển các cuộc khởi nghĩa vũ trang, là “pháo đài” cho đấu tranh trường kỳ.

(1) Điều kiện để xây dựng căn cứ địa cách mạng. 

Việc xây dựng căn cứ địa cách mạng không thể diễn ra một cách tùy tiện mà đòi hỏi phải hội tụ đầy đủ những điều kiện khách quan và chủ quan cụ thể. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định ba điều kiện cốt lõi để một vùng lãnh thổ có thể trở thành căn cứ địa cách mạng vững chắc, bao gồm: lòng dân, địa hình và khả năng tự chủ.

Thứ nhất, xây dựng căn cứ địa cách mạng dựa vào thế trận lòng dân, quần chúng cảm tình ủng hộ – yếu tố nền tảng quyết định sự tồn tại và phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh vai trò trung tâm của Nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Theo Người, “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào”3. Do đó, một căn cứ địa cách mạng chỉ có thể hình thành và duy trì khi có được sự ủng hộ rộng rãi, sâu sắc và bền vững từ Nhân dân địa phương. Điều này không chỉ là sự chấp thuận về mặt tinh thần mà còn thể hiện qua các hành động cụ thể, như: che giấu, bảo vệ cán bộ cách mạng trước sự truy lùng của kẻ thù; cung cấp lương thực, thông tin, vật chất cho lực lượng cách mạng; tham gia trực tiếp vào các tổ chức, như: du kích, dân quân tự vệ, hội phụ nữ cứu quốc… Sự đoàn kết một lòng của dân chúng sẽ tạo ra sức mạnh lớn lao, làm chỗ dựa vững chắc cho đất nước, cho căn cứ địa. Người từng nói: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”4. Lòng dân chính là “lá chắn vô hình, bức thành đồng” bảo vệ cách mạng và là “nguồn tiếp vận vô tận” cho sự nghiệp đấu tranh lâu dài.

Thứ hai, địa hình – yếu tố chiến lược về mặt quân sự và tổ chức. Lựa chọn nơi có địa hình, địa thế hiểm yếu và được quần chúng nhân dân ủng hộ là nội dung có vị trí rất quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa cách mạng. Bởi lẽ, một căn cứ địa cách mạng hiệu quả cần phải có địa thế hiểm yếu, khó tiếp cận đối với kẻ địch nhưng lại thuận lợi cho lực lượng cách mạng trong việc tổ chức phòng thủ, cơ động chiến đấu, rút lui và tiến công. Những đặc điểm địa hình thường được lựa chọn, bao gồm: đồi núi hiểm trở, rừng rậm, sông suối chằng chịt; vùng giáp ranh giữa nhiều tỉnh để thuận lợi cho việc mở rộng phạm vi hoạt động; vị trí xa trung tâm kiểm soát của địch nhưng gần các tuyến giao thông tự nhiên để bảo đảm sự liên lạc và vận chuyển.

Thứ ba, tự chủ – yếu tố bảo đảm khả năng tồn tại lâu dài và phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, một căn cứ địa cách mạng không thể phụ thuộc hoàn toàn vào bên ngoài mà phải có khả năng tự lực, tự cường về nhiều mặt để duy trì hoạt động bền vững trong điều kiện chiến tranh gian khổ. Tính tự chủ thể hiện qua: tự túc lương thực: phát triển sản xuất tại chỗ, bảo đảm hậu cần tại chỗ; tự chủ về quân sự: có lực lượng vũ trang tại chỗ (du kích), có khả năng huấn luyện, tổ chức chiến đấu độc lập; tự chủ về thông tin và chỉ đạo: thiết lập hệ thống liên lạc bí mật, an toàn, bảo đảm mệnh lệnh từ trung ương xuống cơ sở và ngược lại; tự tổ chức chính quyền cách mạng: hình thành các “ủy ban hành chính kháng chiến”, “cơ quan dân vận”, “tòa án nhân dân” để điều hành vùng giải phóng.

Chính nhờ tính tự chủ này mà căn cứ địa cách mạng có thể trở thành trung tâm chính trị, quân sự, hậu cần và tuyên truyền cách mạng, không chỉ phục vụ cho chiến đấu tại chỗ mà còn hỗ trợ cho toàn bộ phong trào cách mạng cả nước.

Thực tiễn sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, tháng 01/1941, Nguyễn Ái Quốc đã trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người đã quyết định lựa chọn Cao Bằng – một vùng đất thuộc Việt Bắc làm căn cứ địa cách mạng quan trọng cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Người hận định: “Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề sát biên giới, lấy đó làm cơ sở liên lạc quốc tế rất thuận lợi. Nhưng từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được. Có nối phong trào được với Thái Nguyên và toàn quốc thì khi phát động đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thể tiến công, lúc khó khăn có thể giữ”5. Với nhận định đánh giá và sự lựa chọn thiên tài của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Pác Bó – Hà Quảng – Cao Bằng đã trở thành “đại bản doanh” của căn cứ địa Việt Bắc, trở thành “cội nguồn”, “chiếc nôi của cách mạng Việt Nam”.

(2) Nội dung xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa cách mạng không chỉ dừng lại ở việc xác định vị trí chiến lược và điều kiện xây dựng mà còn thể hiện tầm nhìn chiến lược lâu dài, toàn diện và phát triển bền vững. Theo Người, căn cứ địa cách mạng không phải là “vùng trú ẩn tạm thời” mà là “cái nôi của cách mạng”, là trung tâm chính trị – quân sự – hậu cần – văn hóa để nuôi dưỡng, phát triển và lan tỏa phong trào cách mạng ra toàn quốc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, muốn kháng chiến thắng lợi, phải xây dựng căn cứ địa cách mạng vững mạnh về mọi mặt, trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự và văn hóa – xã hội.

Về chính trị: củng cố hệ thống tổ chức của Đảng, mặt trận, đoàn thể ở cơ sở; phát triển lực lượng quần chúng, xây dựng niềm tin vào sự lãnh đạo của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết: “Chưa thành lập được chính quyền địa phương thì căn cứ địa khó thành lập và không thể củng cố được”6. Với vai trò, chức năng của mình, chính quyền cách mạng trong căn cứ địa cách mạng bảo đảm an ninh chính trị, an toàn tính mạng cho Nhân dân, tiêu diệt bọn ác ôn, phản động. Chính quyền cách mạng còn tổ chức nhân dân sản xuất, xây dựng “đời sống mới”, phát triển nền văn hóa dân tộc, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân.

Về kinh tế: đẩy mạnh sản xuất tự cấp, tự túc, phát triển nông nghiệp, tổ chức hợp tác sản xuất để bảo đảm hậu cần tại chỗ. Người nhấn mạnh: “Nếu chỉ biết đánh mà không nghĩ đến kinh tế thì khi hết gạo sẽ không đánh được”7.

Về quân sự: xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân tại chỗ, huấn luyện chiến đấu, tổ chức chiến tranh du kích gắn với các chiến dịch chiến lược. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là hành động bạo lực đối với Nhân dân, do đó, “nếu không có lực lượng vũ trang thì không thể đánh thắng được bọn áp bức”8.

Về văn hóa – xã hội: đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục lòng yêu nước, nâng cao dân trí và xây dựng đời sống mới tại vùng căn cứ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận”9, xây dựng văn hóa để xóa bỏ hủ tục lạc hậu, xóa bỏ tàn tích của xã hội cũ, đào tạo con người mới, nếp sống mới, phục vụ kháng chiến, động viên nhân dân tích cực tham gia kháng chiến, tham gia xây dựng căn cứ địa cách mạng.

Tư tưởng này cho thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lồng ghép mục tiêu trước mắt (kháng chiến, đấu tranh vũ trang) với mục tiêu lâu dài (giải phóng dân tộc, kiến thiết đất nước) ngay từ vùng căn cứ địa cách mạng.

(3) Xây dựng đi đôi với bảo vệ căn cứ địa cách mạng. 

Đây là vấn đề có tính nguyên tắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa cách mạng. Quán triệt sâu sắc luận điểm nổi tiếng của V.I.Lê-nin: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”10..Vì vậy, quá trình xây dựng luôn gắn với bảo vệ sẽ giúp cho căn cứ địa cách mạng không ngừng lớn mạnh, mở rộng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng mà còn trụ vững trước những đợt tiến công đánh phá của quân địch. Có thể thấy, xây dựng căn cứ địa cách mạng đi đôi với bảo vệ là một quy luật tất yếu. Ngoài việc mở các đợt tiến công, đánh phá bằng quân sự đối với căn cứ địa cách mạng của ta, địch còn sử dụng tổng lực các biện pháp kinh tế, chính trị, văn hóa – tư tưởng với những âm mưu và thủ đoạn thâm độc, tàn bạo nhất. Do đó, cùng với nhiệm vụ xây dựng, củng cố và phát triển căn cứ địa cách mạng, quân và dân ta phải không ngừng nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và kiên quyết đánh bật kẻ thù ra khỏi căn cứ địa cách mạng, bảo vệ cơ quan lãnh đạo cuộc kháng chiến, bảo vệ tài sản, tính mạng của Nhân dân, bảo vệ sản xuất…

3. Giá trị lý luận và thực tiễn

Một là, kế thừa và phát triển truyền thống nghệ thuật quân sự của dân tộc ta về xây dựng căn cứ địa trong đấu tranh dựng nước và giữ nước.

Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam và các dân tộc trên thế giới, vấn đề căn cứ địa được xem như là một trong những yếu tố quan trọng, quyết định đến thành bại của sự nghiệp cách mạng. Và như một tất yếu của lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã kết hợp được giá trị văn hóa dân tộc và nhân loại về căn cứ địa, nâng nó lên một tầm cao mới phục vụ sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Sử dụng thế giới quan, phương pháp luận Mác – Lênin trong việc kế thừa di sản văn hóa dân tộc và nhân loại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng hợp theo dòng chảy của tư duy và lịch sử để đưa ra quan niệm của mình về xây dựng căn cứ địa ở Việt Nam trong thời đại mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa là hệ thống lý thuyết mới cung cấp nguyên tắc, định hướng về phương pháp, cách thức tổ chức xây dựng căn cứ địa trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc (1939 – 1945).

Tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa cách mạng là sự phát triển sáng tạo của nghệ thuật quân sự dân tộc trong bối cảnh mới. Không chỉ kế thừa những kinh nghiệm chiến đấu của các thế hệ đi trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn sáng tạo ra những hình thức mới trong việc bảo vệ, xây dựng và phát triển căn cứ địa. Các phương pháp này phù hợp với chiến tranh du kích và chiến tranh nhân dân trong thời đại mới, đặc biệt trong các cuộc chiến tranh kéo dài, đụng độ với các thế lực có sức mạnh quân sự vượt trội như thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.

Hai là, bổ sung và phát triển sáng tạo, làm phong phú kho tàng lý luận quân sự của chủ nghĩa Mác – Lênin về căn cứ địa cách mạng và hậu phương chiến tranh.

Chủ nghĩa Mác – Lênin đã xây dựng nền tảng lý luận quân sự về chiến tranh nhân dân, về căn cứ địa cách mạng và hậu phương chiến tranh, đặc biệt là trong các tác phẩm của Mác – Ăngghen về chiến tranh và cách mạng cũng như trong lý luận của Lênin về chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân và chiến tranh du kích. Các lý luận đã khẳng định, căn cứ địa và hậu phương chiến tranh có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc duy trì và phát triển cuộc đấu tranh giành chính quyền, giữ vững và bảo vệ cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tạo trong việc mở rộng khái niệm căn cứ địa cách mạng. Người không chỉ coi căn cứ địa là một địa điểm vật lý mà còn coi nó là một “căn cứ tinh thần” của cách mạng. Các căn cứ địa của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là những vùng đất an toàn mà là các “tổ chức cách mạng” gắn với nhân dân. Người đã phát triển sáng tạo lý luận về căn cứ địa cách mạng trong bối cảnh Việt Nam, cho rằng căn cứ địa không chỉ cần phải vững chắc về mặt quân sự mà còn phải phát triển mạnh mẽ về mặt chính trị và xã hội. Căn cứ địa phải kết hợp giữa xây dựng lực lượng quân sự và phát triển phong trào cách mạng của Nhân dân. Có thể thấy, quan điểm xây dựng căn cứ địa phải dựa chắc vào dân chúng, vào lực lượng chính trị, vào yếu tố lòng dân là đóng góp vô cùng có giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc làm phong phú kho tàng lý luận Mác – Lênin. 

Ba là, là tiền đề lý luận để Đảng lãnh đạo hoạt động xây dựng căn cứ địa cách mạng.

Tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng căn cứ địa cách mạng đã đóng vai trò quan trọng, làm nền tảng lý luận cho Đảng trong việc lãnh đạo các hoạt động xây dựng và phát triển các căn cứ địa trong các cuộc kháng chiến. Việc xây dựng và duy trì căn cứ địa cách mạng không chỉ là nhiệm vụ của lực lượng quân đội mà còn là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa đã chỉ ra rằng, căn cứ địa không chỉ là nơi tập trung quân đội mà còn là nơi tập hợp lực lượng cách mạng. Đảng phải lãnh đạo việc xây dựng và phát triển các căn cứ địa; đồng thời, phải phát triển các tổ chức chính trị, xã hội trong căn cứ, giúp tạo ra một hệ thống vững chắc trong chiến tranh nhân dân.

Bốn là, tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa cách mạng là một trong những nguyên nhân trực tiếp quyết định đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa cách mạng là một trong những yếu tố chiến lược quyết định thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, đánh dấu sự thành công trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Việc xây dựng và duy trì các căn cứ địa cách mạng không chỉ là vấn đề quân sự, mà còn là vấn đề chính trị và tổ chức, là một yếu tố quan trọng trong chiến lược tổng thể của Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng về căn cứ địa cách mạng của Người đã đóng vai trò quyết định trong việc tổ chức lực lượng, huy động sức mạnh quần chúng và tạo ra điều kiện cho thắng lợi của cách mạng. Việc xây dựng căn cứ địa vững chắc đã tạo ra một nền tảng vững vàng cho việc phát triển lực lượng cách mạng. Trong thời kỳ đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Nhật, các căn cứ địa như Việt Bắc, Tân Trào… đã trở thành nơi tập trung lực lượng cách mạng, là nơi lãnh đạo cách mạng tập hợp lực lượng quân đội, tổ chức quần chúng và xây dựng những phong trào chính trị rộng lớn. Căn cứ địa cách mạng là một trong những nguyên nhân trực tiếp và quyết định đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, khẳng định sự sáng suốt và chiến lược lãnh đạo của Hồ Chí Minh trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Năm là, tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa cách mạng soi sáng công cuộc xây dựng căn cứ địa, hậu phương trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tư tưởng Hồ Chí Minh đã được vận dụng sáng tạo trong thực tiễn xây dựng căn cứ địa, hậu phương. Tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa, hậu phương trong kháng chiến chống thực dân Pháp thể hiện tập trung, toàn diện ở căn cứ địa Việt Bắc và hệ thống căn cứ địa, hậu phương trong cả nước. Với lợi thế về nhân hòa và địa lợi, được Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng quan tâm chỉ đạo trực tiếp, Việt Bắc đã trở thành căn cứ địa, hậu phương vững mạnh cả về chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa – tinh thần theo đà tiến lên của cách mạng giải phóng dân tộc. Trong chiến dịch Thu – Đông năm 1947, chiến dịch Biên Giới năm 1950 và đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, căn cứ địa Việt Bắc đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình, góp phần quyết định đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi. 

Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, truyền thống xây dựng căn cứ địa, hậu phương của dân tộc; kinh nghiệm xây dựng căn cứ địa, hậu phương trong khởi nghĩa vũ trang và trong kháng chiến chống thực dân Pháp đã được kế thừa và vận dụng sáng tạo, linh hoạt ở miền Nam. Căn cứ địa, hậu phương trong kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam đã thực sự trở thành hậu phương tại chỗ – nơi đứng chân vững chắc của cách mạng để củng cố tiềm lực mọi mặt và là bàn đạp tiến công địch của các lực lượng vũ trang miền Nam. Dưới sự chỉ đạo của Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng, miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã làm tròn vai trò hậu phương chiến tranh đối với miền Nam tiền tuyến. Cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược của Nhân dân ta giành thắng lợi bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử 1975. Với thắng lợi vĩ đại này, một lần nữa, giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa cách mạng tỏa sáng trên cơ sở vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng.

Sáu là, tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa soi sáng công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn dân hiện nay.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa cách mạng đã để lại những giá trị thực tiễn vô cùng quan trọng trong việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân hiện nay. Những nguyên lý về sự kết hợp giữa quân sự và chính trị, sự phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, tính linh hoạt và sáng tạo trong chiến lược quốc phòng cũng như vai trò của giáo dục quốc phòng đã trở thành nền tảng cho công tác xây dựng quốc phòng trong thời kỳ hòa bình và hiện đại. Tư tưởng này không chỉ là bài học quý báu trong việc bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ chiến tranh mà còn là kim chỉ nam cho việc bảo vệ an ninh quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của các mối đe dọa phi truyền thống. Việc áp dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa vào công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn dân hiện nay không chỉ mang lại sức mạnh quân sự mà còn tạo ra một nền tảng an ninh xã hội vững chắc, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

4. Kết luận 

Tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa cách mạng không chỉ mang tính chất lý luận mà còn là một hệ thống chiến lược thực tiễn, phản ánh sự kết hợp chặt chẽ giữa các yếu tố quân sự, chính trị và xã hội trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Căn cứ địa, theo tư tưởng của Người không chỉ là những khu vực phòng thủ trong chiến tranh mà còn là biểu tượng của sức mạnh nội tại, là nơi khởi nguồn của các phong trào cách mạng, nơi thể hiện sự sáng suốt trong lãnh đạo và sự đoàn kết toàn dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa cách mạng là một di sản quý giá, mang lại giá trị lý luận sâu sắc và thực tiễn cần thiết trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước vững mạnh. Những nguyên lý này vẫn tiếp tục soi sáng con đường phát triển đất nước, đặc biệt là trong việc tăng cường quốc phòng và an ninh quốc gia trong thời kỳ hòa bình cũng như trong bối cảnh những mối đe dọa phi truyền thống ngày càng gia tăng.

Chú thích:

1. Đại tướng Văn Tiến Dũng (1993). Đi theo con đường của Bác. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 173.

2, 6. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 3. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 536, 536.

3. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 672.

4. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 333.

5. Võ Nguyên Giáp (2012). Những chặng đường lịch sử. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 37.

7, 9. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 446, 246.

8. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 331.

10. V.I.Lê-nin toàn tập (1977). Tập 37. NXB Tiến Bộ, Mát-xcơ-va, tr. 145.

Bùi Văn Minh
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

1. Đặt vấn đề Chủ tịch Hồ Chí Minh – nhà chiến lược thiên tài, nhà quân sự xuất sắc của dân tộc Việt Nam. Người để lại di sản tư tưởng – lý luận quân sự có giá trị vô cùng to lớn cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta; trong đó, tư tưởng về căn cứ địa cách mạng không chỉ là bài học thành công trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc mà còn mang nhiều giá trị sâu sắc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa cách mạng là một trong những nhân tố tạo tiền đề quyết định đưa Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi; cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ thành công. Chủ tịch Hồ Ch&ia

Tin khác cùng chủ đề

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tận tụy, liêm, chính theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Xây dựng xã hội học tập theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Quét sạch chủ nghĩa cá nhân để phòng, chống suy thoái
Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về chống “giặc nội xâm” đến cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong thời kỳ đổi mới
Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về làm gương, nêu gương và noi gương của cán bộ, đảng viên và giải pháp thực hiện
Nội dung xây dựng Đảng về đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng

Gửi bình luận của bạn