Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước đang tiến vào kỷ nguyên mới, do đó, đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với phương thức lãnh đạo của Đảng. Bài viết tập trung phân tích cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, từ đó, đề xuất một số giải pháp đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh

1. Đặt vấn đề

Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Từ khi ra đời đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã giành được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Trước yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo đất nước trong giai đoạn mới, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới”1. Điều này cho thấy, đổi mới phương thức lãnh đạo không chỉ là yêu cầu khách quan của sự phát triển đất nước mà còn là vấn đề sống còn của Đảng trong điều kiện mới. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu, quán triệt, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phương thức lãnh đạo của Đảng; trên cơ sở đó, vận dụng vào đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới hiện nay.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương thức lãnh đạo của Đảng

Tiếp thu quan điểm của Lênin, “Cách mạng vô sản chỉ có thể giành thắng lợi khi có đảng cộng sản, chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo”; ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định sự lãnh đạo của Đảng có vai trò to lớn, có ý nghĩa quyết định đối với cách mạng Việt Nam. Người nhấn mạnh: “Cách mạng là cuộc đấu tranh rất gian khổ. Lực lượng kẻ địch rất mạnh. Muốn thắng lợi thì quần chúng phải tổ chức rất chặt chẽ; chí khí phải kiên quyết. Vì vậy, phải có Đảng để tổ chức và giáo dục nhân dân thành một đội quân thật mạnh, để đánh đổ kẻ địch, tranh lấy chính quyền”2. Đảng là lực lượng duy nhất có khả năng tổ chức, tập hợp, giáo dục và rèn luyện quần chúng thành một đội quân cách mạng hùng mạnh, biết đoàn kết, kiên trì và đấu tranh bền bỉ. Đảng cũng là người đề ra cương lĩnh, chiến lược, sách lược phù hợp với từng giai đoạn, biến khát vọng độc lập, tự do của Nhân dân thành sức mạnh hiện thực để đánh đổ kẻ thù và giành chính quyền. Nói cách khác, Đảng chính là nhân tố bảo đảm cho cách mạng có tổ chức, có định hướng và đi đến thắng lợi cuối cùng. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết: “Có Đảng lãnh đạo, cách mạng và kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công”3. Tư tưởng này thể hiện rõ sự kiên định và nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh: ở bất kỳ giai đoạn hay hoàn cảnh nào, cách mạng chỉ có thể giành thắng lợi khi đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Là đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam chịu trách nhiệm trước Nhân dân, dân tộc về sự phát triển của đất nước. Mọi thành công hay thất bại của sự nghiệp cách mạng Đảng phải chịu trách nhiệm, không đổ lỗi cho khách quan, không trốn tránh trách nhiệm mà phải ra sức phấn đấu làm tròn trách nhiệm của đảng cầm quyền. Muốn bảo đảm vai trò lãnh đạo đó, theo Người, Đảng cần phải xác lập phương thức lãnh đạo phù hợp. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền được thể hiện trên một số phương diện cơ bản sau:

Một là, Đảng lãnh đạo bằng đường lối. Theo Người, phương thức lãnh đạo của Đảng trước hết thể hiện trong đề ra đường lối lãnh đạo đúng. Người chỉ rõ: “phải có đường lối cách mạng đúng, có đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo đúng. Đường lối ấy chỉ có thể là đường lối của chủ nghĩa Mác – Lênin được vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của dân tộc”4. Đường lối chính trị đúng đắn là vấn đề cốt lõi, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của Đảng. Có Cương lĩnh, đường lối đúng mới giúp Nhân dân giác ngộ mục tiêu đấu tranh, hiểu rõ tình hình cách mạng và xác định phương hướng hành động. 

Việc xây dựng Cương lĩnh, đường lối chính trị là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng. Người chỉ rõ, “Phương hướng đã định, ta nhằm vào phương hướng ấy mà đi, thế nào ta cũng đi tới đích”5. Để có đường lối chính trị đúng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng phải dựa trên lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, coi đó là “gốc”, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Đồng thời, Đảng phải vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng.

Hai là, Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức thi hành đường lối lãnh đạo. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc đề ra đường lối đúng chỉ là bước khởi đầu, điều có ý nghĩa quyết định chính là tổ chức thực hiện đường lối đó trong thực tiễn. Một trong những nhiệm vụ trọng yếu thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng chính là công tác tuyên truyền, vận động và giáo dục để biến chủ trương, đường lối thành hành động cách mạng trong thực tiễn. 

Đảng không chỉ đề ra Cương lĩnh, chiến lược, sách lược mà còn phải thuyết phục, giải thích, hướng dẫn để cán bộ, đảng viên và Nhân dân hiểu rõ mục tiêu, ý nghĩa cũng như nội dung của đường lối đó. Khi quần chúng đã giác ngộ và tự giác thực hiện, chủ trương của Đảng mới có sức sống, đi vào đời sống xã hội, trở thành phong trào hành động rộng lớn. Người chỉ rõ: “Chúng ta phải kiên quyết thuyết phục để tranh thủ sự đồng tình nhất trí của nhân dân với nghị quyết của Đảng ta”6. Nghị quyết của Đảng chỉ thực sự phát huy hiệu lực khi được Nhân dân thấu hiểu, đồng tình và tự giác thực hiện. Sự thuyết phục ở đây không chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền, giải thích bằng lời mà còn thể hiện qua thực tiễn gương mẫu của cán bộ, đảng viên, qua tính đúng đắn, thiết thực và phù hợp của nghị quyết đối với lợi ích của Nhân dân. 

Ba là, Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên. Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải xây dựng tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở và đội ngũ đảng viên thật sự trong sạch, vững mạnh. Tổ chức đảng, nhất là ở cơ sở giữ vai trò then chốt trong việc quán triệt, nắm vững và bảo đảm cho mọi hoạt động diễn ra đúng với đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đây chính là “cầu nối” trực tiếp giữa Đảng với quần chúng, là nơi cụ thể hóa các nghị quyết thành nhiệm vụ, chương trình hành động phù hợp với tình hình thực tế. 

Tổ chức đảng không chỉ lãnh đạo, định hướng mà còn kiểm tra, giám sát, bảo đảm tính thống nhất trong nhận thức và hành động của toàn thể cán bộ, đảng viên, qua đó củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, làm cho đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước thực sự đi vào cuộc sống. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, “Chi bộ là đồn lũy của Đảng chiến đấu ở trong quần chúng… Tác dụng của chi bộ là cực kỳ quan trọng, vì nó là sợi dây chuyền để liên hệ Đảng với quần chúng”7

Chi bộ không chỉ là nơi triển khai đường lối, nghị quyết của Đảng một cách trực tiếp và cụ thể nhất mà còn là hạt nhân quy tụ, dẫn dắt quần chúng ở cơ sở. Để làm được điều đó, chi bộ phải xây dựng được sự đoàn kết nội bộ, bởi chỉ có đoàn kết thì mới tạo ra sức mạnh thống nhất trong lãnh đạo. Đồng thời, chi bộ phải giữ mối liên hệ mật thiết với Nhân dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc để tạo niềm tin và sự đồng thuận. Trên cơ sở đó, chi bộ có thể khơi dậy trí tuệ tập thể, phát huy tiềm năng, sức sáng tạo và sức mạnh to lớn của Nhân dân, biến chủ trương của Đảng thành hành động tự giác, hiệu quả trong đời sống. 

Bên cạnh đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phương thức lãnh đạo của Đảng còn thông qua chính đội ngũ đảng viên. Người cho rằng, “Mỗi đảng viên là một người thay mặt cho Đảng trước quần chúng, để giải thích chính sách của Đảng và của Chính phủ cho quần chúng hiểu rõ và vui lòng thi hành. Mà muốn cho quần chúng hăng hái thi hành thì người đảng viên ắt phải xung phong làm gương mẫu để quần chúng bắt chước làm theo”8. Vì vậy, Đảng cần phải làm cho thành phần đảng viên trong sạch, phải nâng cao trình độ lý luận chính trị của đảng viên. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu đảng viên phải “học hiểu lý luận, chính sách, tình hình trong nước và trên thế giới để giáo dục cho quần chúng. Phải học hiểu nghề nghiệp chuyên môn mà Đảng và Chính phủ giao cho mình phụ trách. Phải có tinh thần hy sinh cho cách mạng, có tinh thần trách nhiệm để vượt mọi khó khăn… Phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu”9.

Bốn là, Đảng lãnh đạo thông qua công tác kiểm tra. Là người sáng lập và rèn luyện Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm đến công tác kiểm tra; đồng thời, Người coi công tác kiểm tra là một khâu quan trọng trong toàn bộ công tác lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng. Theo Người, muốn biến ý chí, trí tuệ của Đảng thành hiện thực trong cuộc sống thì phải thường xuyên quan tâm đến công tác kiểm tra. Nếu công tác kiểm tra buông lỏng sẽ dẫn đến tình trạng “nghị quyết một đằng, thi hành một nẻo” mà Đảng không kịp thời phát hiện. Khi đó, không chỉ làm cho đường lối, chính sách trở nên hình thức, vô hiệu, mà còn gây tổn hại đến niềm tin của Nhân dân đối với Đảng. Người chỉ rõ: “Có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”10. Chính vì vậy, chỉ có kiểm tra nghiêm túc, thường xuyên mới giúp nhận diện rõ ưu điểm và hạn chế của nghị quyết, kịp thời ngăn chặn sai lầm, khắc phục khuyết điểm, chấn chỉnh những lệch lạc và loại bỏ những phần tử thoái hóa, biến chất. 

3. Thực trạng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay

Đảng ta chỉ rõ: “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị đã có nhiều đổi mới, đạt được nhiều kết quả quan trọng” 11. Việc ban hành nghị quyết, chỉ thị, kết luận ngày càng chặt chẽ, khoa học, sát hợp thực tiễn, bảo đảm tính khả thi và hiệu quả trong tổ chức thực hiện. Công tác thể chế hóa chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước có nhiều chuyển biến tích cực, tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh và mở rộng quan hệ đối ngoại. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng được tăng cường, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, góp phần ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực. Đồng thời, Đảng chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn bó mật thiết với Nhân dân, không ngừng nâng cao tính tiên phong, gương mẫu, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Những kết quả đó đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, củng cố niềm tin của Nhân dân vào sự nghiệp đổi mới và phát triển của đất nước.

Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số hạn chế, như: “Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng không khả thi. Chậm khắc phục tình trạng ban hành nhiều văn bản, một số văn bản còn chung chung, dàn trải, chậm bổ sung, sửa đổi, thay thế”12

Một số cấp ủy, tổ chức đảng hiện nay chưa thực sự đổi mới phương thức lãnh đạo, vẫn tồn tại tình trạng hoặc là bao biện, làm thay hoặc là buông lỏng vai trò lãnh đạo. Việc cụ thể hóa nghị quyết của một số cấp ủy, tổ chức đảng hiện nay vẫn còn chậm, chưa bám sát thực tiễn và chất lượng chưa cao. Mặt khác, một số văn bản cụ thể hóa còn mang tính hình thức, dàn trải, nội dung chung chung, chưa xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của địa phương, cơ sở dẫn đến tính khả thi thấp.

Một số quy chế, quy định về mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội hiện nay vẫn chưa thật sự đồng bộ, thống nhất dẫn đến khó khăn trong quá trình phối hợp và triển khai nhiệm vụ. Sự thiếu đồng bộ này làm cho việc phân định vai trò, trách nhiệm, thẩm quyền giữa các chủ thể chưa rõ ràng; ở một số nơi còn tình trạng chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót nhiệm vụ, làm giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị. 

Mối quan hệ phối hợp giữa các tổ chức trong việc giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng và chính quyền chưa được phát huy đầy đủ, dẫn đến tính gắn kết, sức mạnh tổng hợp chưa cao. Điều này phần nào ảnh hưởng đến việc thực hiện phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”; đồng thời, làm giảm hiệu quả huy động và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. 

Công tác kiểm tra, giám sát ở một số nơi, một số thời điểm chưa được tiến hành thường xuyên, thiếu tính quyết liệt dẫn đến hiệu quả chưa cao. Việc chậm phát hiện những sai phạm, hạn chế hoặc chưa kịp thời chấn chỉnh, xử lý khiến cho một số khuyết điểm kéo dài, thậm chí trở nên nghiêm trọng hơn, gây ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức đảng và niềm tin của Nhân dân. Ở một số cấp ủy, tổ chức đảng, công tác kiểm tra vẫn mang tính hình thức, còn nể nang, né tránh, chưa thực sự đi vào chiều sâu; công tác giám sát chưa toàn diện, chưa phát huy hết vai trò cảnh báo, phòng ngừa. 

Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa phát huy được vai trò nêu gương, còn tồn tại biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thậm chí nảy sinh tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Sự suy thoái này không chỉ dừng lại ở cá nhân mà nếu không được ngăn chặn kịp thời còn có thể lan rộng, tạo thành nguy cơ làm biến chất tổ chức, dẫn đến những hệ lụy nghiêm trọng đối với sự nghiệp cách mạng. Theo đó, năm 2023, “tổng số cán bộ đảng viên, công chức, viên chức bị kỷ luật là 17.808 người”13; năm 2024, cả nước có “hơn 700 tổ chức đảng và 24.000 đảng viên vi phạm bị kỷ luật. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kỷ luật 68 cán bộ diện Trung ương quản lý” 14.

4. Một số giải pháp

Một là, nâng cao chất lượng ban hành các nghị quyết lãnh đạo. Trước hết, quá trình xây dựng, ban hành đường lối cần dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn sâu sắc, gắn chặt với nghiên cứu lý luận, phân tích khoa học các xu thế vận động khách quan. Mọi đường lối, nghị quyết phải thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược, xác định đúng trọng tâm, trọng điểm; đồng thời, có tính khả thi cao, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước trong từng giai đoạn. Bên cạnh đó, cần phát huy dân chủ, trí tuệ tập thể, huy động sự tham gia đóng góp ý kiến của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, nhà khoa học và Nhân dân để bảo đảm tính toàn diện, sát thực tiễn. Đặc biệt, việc ban hành đường lối phải đi đôi với cơ chế cụ thể hóa nhanh chóng thành chủ trương, chính sách, pháp luật và các chương trình, kế hoạch hành động đồng bộ, khả thi. Có như vậy, đường lối của Đảng mới thực sự trở thành kim chỉ nam cho hành động, là cơ sở định hướng sự phát triển bền vững, tạo niềm tin, sự đồng thuận trong toàn xã hội.

Hai là, tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng trong thực tiễn. Tổ chức thực hiện đường lối của Đảng là khâu có ý nghĩa quyết định, bảo đảm biến chủ trương, nghị quyết thành hành động thực tiễn, mang lại hiệu quả thiết thực trong đời sống xã hội. Đây không chỉ là quá trình triển khai đơn thuần mà còn là sự cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp thành chương trình, kế hoạch sát hợp với từng ngành, từng địa phương, từng lĩnh vực. Để tổ chức thực hiện có hiệu quả, cần nâng cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, phát huy trách nhiệm nêu gương, tính tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đồng thời, phải có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống và sự đồng thuận của Nhân dân. 

Công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết cần được tiến hành thường xuyên, kịp thời phát hiện những hạn chế, vướng mắc để điều chỉnh, bổ sung phù hợp. Khi đường lối được tổ chức thực hiện bài bản, nghiêm túc, đồng bộ và có sự tham gia tích cực của toàn xã hội mới có thể biến những quyết sách của Đảng thành động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước.

Ba là, xây dựng các tổ chức đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Xây dựng các tổ chức đảng thật sự trong sạch, vững mạnh là yêu cầu tất yếu, có ý nghĩa quyết định đối với năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Một tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh phải thể hiện ở chỗ: kiên định mục tiêu, lý tưởng, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; bảo đảm đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo gắn với trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu. 

Thường xuyên nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương của Đảng; làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức và bản lĩnh cho cán bộ, đảng viên; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, ngăn chặn suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đồng thời, chú trọng công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các sai phạm; coi trọng công tác phát triển đảng viên mới, bảo đảm tính kế thừa và phát triển liên tục. Khi các tổ chức đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, Đảng mới đủ uy tín, sức mạnh để lãnh đạo đất nước phát triển nhanh, bền vững, đáp ứng niềm tin và kỳ vọng của Nhân dân.

Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu. Mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn đi đầu trong nhận thức và hành động, thể hiện rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng; nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Người đảng viên tiên phong, gương mẫu không chỉ thể hiện ở lời nói, mà còn phải được chứng minh bằng hành động cụ thể trong công việc và đời sống hằng ngày; gắn bó mật thiết với nhân dân, nói đi đôi với làm, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. 

Thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống trong sáng, lành mạnh, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng; kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Khi đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, họ sẽ trở thành hạt nhân đoàn kết trong tập thể, tấm gương sáng trong xã hội, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, tạo sức mạnh to lớn để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. 

Chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giúp cán bộ, đảng viên kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng, giữ vững bản lĩnh trước những tác động tiêu cực từ bên ngoài. Đồng thời, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, coi đây là chuẩn mực hành động trong công tác cũng như trong đời sống hằng ngày. Bên cạnh đó, cần xây dựng và thực hiện nghiêm các quy định về nêu gương, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu; lấy kết quả nêu gương làm tiêu chí quan trọng trong đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ.

Năm là, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Các cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, gắn công tác kiểm tra, giám sát với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và rèn luyện phẩm chất, đạo đức cán bộ, đảng viên. Nội dung, phương thức kiểm tra, giám sát cần được đổi mới theo hướng công khai, minh bạch, dân chủ, khoa học, tập trung vào những lĩnh vực, địa bàn nhạy cảm, dễ phát sinh tiêu cực; đồng thời, tăng cường giám sát chuyên đề, kiểm tra đột xuất, tránh hình thức, dàn trải. Cùng với đó, phải xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra có bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, thật sự công tâm, khách quan, liêm chính, dám đấu tranh với sai phạm. 

Việc xử lý kỷ luật phải được tiến hành nghiêm minh, kịp thời, công bằng, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, kết hợp chặt chẽ giữa tính nghiêm khắc với tính nhân văn, giáo dục để cán bộ, đảng viên có cơ hội sửa chữa, tiến bộ. Đồng thời, cần phát huy vai trò giám sát của Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, báo chí và các tổ chức chính trị – xã hội; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao tính minh bạch, hiệu quả trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật, qua đó góp phần xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, củng cố niềm tin của Nhân dân.

Sáu là, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong lãnh đạo. Để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và thúc đẩy chuyển đổi số trong công tác lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, trước hết, cần tập trung hoàn thiện hạ tầng số, coi đây là nền tảng quan trọng cho việc triển khai các nhiệm vụ. Việc đầu tư đồng bộ hệ thống công nghệ thông tin, bảo đảm an toàn, bảo mật dữ liệu; xây dựng, kết nối và chia sẻ các cơ sở dữ liệu lớn sẽ giúp các cấp ủy, tổ chức đảng khai thác thông tin hiệu quả, phục vụ công tác phân tích, dự báo và ban hành quyết sách kịp thời, chính xác. 

Cần chú trọng phát triển nguồn nhân lực số, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên về tư duy số, kỹ năng số, an toàn thông tin; đồng thời, xây dựng tác phong làm việc chuyên nghiệp, hiện đại. Bên cạnh đó, việc tăng cường tương tác với Nhân dân qua các nền tảng số, công khai minh bạch thông tin, tiếp nhận phản ánh, kiến nghị kịp thời sẽ góp phần củng cố niềm tin và sự đồng thuận xã hội. Cần đặc biệt quan tâm bảo đảm an ninh mạng và an toàn dữ liệu, hoàn thiện cơ chế, chính sách phòng ngừa, phát hiện, xử lý các nguy cơ, sự cố, nhằm bảo vệ vững chắc hệ thống chính trị trong môi trường số.

5. Kết luận

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là yêu cầu khách quan, cấp bách, gắn liền với vận mệnh của Đảng và sự phát triển bền vững của đất nước. Trong kỷ nguyên mới, khi Việt Nam đang hội nhập quốc tế sâu rộng và bước vào thời kỳ phát triển mới, nhiệm vụ này càng có ý nghĩa sống còn. Thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới phương thức lãnh đạo sẽ góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền; phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Chú thích:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 196.

2, 3, 7, 9. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 8. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 274, 273, 288, 278.

4. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 14. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 608.

5. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 15.

6. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 452.

8. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 55.

10. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 636.

11, 12. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2022). Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới.

13. Gần 18.000 cán bộ đảng viên, công chức, viên chức trên cả nước bị kỷ luật.https://tuoitre.vn/gan-18-000-can-bo-dang-vien-cong-chuc-vien-chuc-tren-ca-nuoc-bi-ky-luat-2023121911091599.

14. Năm 2024, hơn 700 tổ chức đảng và 24.000 đảng viên vi phạm bị kỷ luật.https://cand.com.vn/su-kien-binh-luan-thoi-su/nam-2024-hon-700-to-chuc-dang-va-24-000-dang-vien-vi-pham-bi-ky-luat-i755170

1. Đặt vấn đề Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Từ khi ra đời đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã giành được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Trước yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo đất nước trong giai đoạn mới, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới”1. Điều này cho thấy, đổi mới phương thức lãnh đạo không chỉ là yêu cầu khách quan của sự phát triển đất nước mà còn là vấn đề sống còn của Đảng trong điều kiện mới. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu, quán triệt, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phương thức lãnh đạo của Đảng; tr

Tin khác cùng chủ đề

Sức mạnh trường tồn của Đảng là niềm tin của Nhân dân
Những thành tựu lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam 95 năm qua
Mùa xuân khơi dậy khát vọng phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới
Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng
Quan điểm phát triển văn hóa, con người trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Bảo đảm tính đảng và tính khoa học của khoa học lịch sử và khoa học chính trị trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch

Gửi bình luận của bạn