Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết là nền tảng chiến lược, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, đoàn kết là sức mạnh, là “điều kiện tiên quyết để thành công”. Vận dụng tư tưởng đó trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi Đảng, Nhà nước và toàn hệ thống chính trị, các giai tầng xã hội kiên trì củng cố, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở tôn trọng sự đa dạng, đề cao lợi ích chung, bảo đảm công bằng, dân chủ và phát triển bền vững. Bài viết làm rõ những nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết, những vấn đề đặt ra trong thực tiễn hiện nay và đề xuất định hướng vận dụng phù hợp trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam hiện nay.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Đại đoàn kết toàn dân tộc là một trong những tư tưởng lớn, xuyên suốt và nhất quán trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Người khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” - một lời hiệu triệu mang giá trị trường tồn, khái quát vai trò sống còn của tinh thần đoàn kết đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam. Trong tư tưởng của Người, đại đoàn kết không chỉ là mục tiêu, mà còn là phương thức, là động lực để tập hợp, phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, bất kể thành phần, tôn giáo, dân tộc hay tầng lớp xã hội, cùng hướng tới lợi ích chung vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và hạnh phúc của Nhân dân. Tư tưởng đó đã được Đảng ta vận dụng sáng tạo qua các thời kỳ lịch sử, trở thành sợi chỉ đỏ trong đường lối lãnh đạo cách mạng, góp phần làm nên những thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, khi đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới với yêu cầu ngày càng cao về hội nhập quốc tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và bảo đảm công bằng xã hội, thì vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc càng trở nên cấp thiết.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết - nội dung cốt lõi và giá trị nền tảng

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết (ĐĐK) được hình thành và phát triển trên cơ sở kế thừa truyền thống yêu nước, nhân văn và khoan dung của dân tộc Việt Nam, kết hợp với thế giới quan cách mạng và chủ nghĩa nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, ĐĐK là sự nghiệp của toàn dân, là sức mạnh tổng hợp từ sự liên kết, thống nhất giữa các giai tầng, các dân tộc, các tôn giáo, mọi thành phần trong xã hội trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cùng hướng tới mục tiêu chung là độc lập dân tộc, hạnh phúc của nhân dân.

Người nhấn mạnh, đoàn kết không phải là khẩu hiệu hình thức, mà phải trở thành nguyên tắc hành động, được thể chế hóa bằng chính sách cụ thể, được thực hiện thông qua thực tiễn vận động quần chúng. Đại đoàn kết phải dựa trên nền tảng lợi ích dân tộc, đặt quyền lợi Tổ quốc và nhân dân lên trên hết, kết hợp hài hòa lợi ích các giai tầng trong xã hội. Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao vai trò của Mặt trận Dân tộc Thống nhất như một hình thức tổ chức chủ đạo để thực hiện ĐĐK toàn dân.

Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐĐK là hệ thống những luận điểm, mục tiêu, nguyên tắc, phương pháp và biện pháp giáo dục, tổ chức hướng dẫn hành động của Người với các lực lượng cách mạng, nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc, sức mạnh quốc tế trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Đó chính là chiến lược xây dựng, củng cố, mở rộng, tăng cường lực lượng cách mạng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Tư tưởng ĐĐK Hồ Chí Minh được thể hiện trước hết ở chỗ: Đại đoàn kết là sức mạnh, là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quyết định sự thành công của cách mạng. Người cho rằng đoàn kết sẽ tạo nên sức mạnh bởi đoàn kết, ĐĐK là sự tập hợp và phát huy sức mạnh của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Nhưng đây không phải là sự tập hợp rời rạc của các phép cộng giản đơn mà luôn có sự tuyên truyền vận động, giáo dục, giác ngộ, hướng dẫn, tổ chức quần chúng thành lực lượng thống nhất để tạo nên sức mạnh vô địch chống mọi kẻ thù. Người nói: ĐĐK là “sức mạnh”(1), là “lực lượng”(2), “là then chốt của sự thành công”(3), đoàn kết là “điểm mẹ”, “Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”(4).

Đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược, là nội dung tư tưởng lớn, cơ bản xuyên suốt, nhất quán trong suốt cuộc đời hoạt động lý luận và thực tiễn của Người. Đồng thời, đó cũng là đường lối chiến lược của Đảng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhờ đó Đảng ta đã xây dựng được khối ĐĐK toàn dân tộc và đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là một chủ trương, một chiến lược xuất phát từ sự cần thiết, từ ý muốn chủ quan của lực lượng lãnh đạo cách mạng, mà là sự đúc kết từ những nhu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng do quần chúng tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển những nhu cầu đòi hỏi khách quan của quần chúng từ sự tự phát thành tự giác, thành hiện thực, có tổ chức, có sức mạnh. Người nhấn mạnh: đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân, nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng “dân” và lấy “dân” là trung tâm, là gốc rễ, là nền tảng, là chủ thể, là nguồn sức mạnh vô tận của khối ĐĐK, quyết định thành bại của cách mạng. Theo Người, ĐĐK toàn dân là tập hợp mọi người dân không phân biệt giới tính, lứa tuổi, ngành nghề, giai cấp, không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo… kể cả người Việt Nam ở nước ngoài hay những người lầm đường lạc lối đã biết hối cải trở về với chính nghĩa, miễn là người Việt Nam yêu nước vào thành một khối thống nhất của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam. Trong khối ĐĐK đông đảo, rộng rãi ấy, Người sắp xếp vị trí, vai trò của từng giai cấp một cách đúng đắn, khoa học, trong đó, giai cấp công nhân, nông dân, trí thức là nòng cốt của khối ĐĐK, để tập hợp các lực lượng tiến bộ khác. Liên minh này được coi là xương sống, là sức mạnh của khối ĐĐK. Người ví “Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây”, “Nền có vững nhà mới chắc chắn, gốc có tốt thì cây mới tốt tươi(5). Tổ chức thể hiện khối ĐĐK toàn dân tộc chính là Mặt trận Dân tộc thống nhất (nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam). Cho dù tên gọi của Mặt trận qua các thời kỳ có khác nhau, nhưng thực chất là một tổ chức chính trị rộng rãi, có vai trò vận động quần chúng đoàn kết xung quanh Đảng Cộng sản Việt Nam vì mục tiêu hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, cùng nhau bàn bạc đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức. Trong đại đoàn kết phải có vai trò lãnh đạo của Đảng. Muốn tập hợp đoàn kết, quy tụ được cả dân tộc thì trước hết đảng đó phải là đảng cách mạng và trí tuệ. Đảng lãnh đạo Mặt trận bằng việc xác định chính sách mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng thời kỳ của cách mạng và phải theo nguyên tắc của Mặt trận. Đảng dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành của mình để đối xử, cảm hóa, không lấy quyền uy của mình buộc các thành viên khác tuân theo. Muốn lãnh đạo được Mặt trận, lãnh đạo được khối ĐĐK, trước hết Đảng phải thật sự đoàn kết, nhất trí. Sự đoàn kết của Đảng, của đội ngũ cán bộ là cơ sở cho đại đoàn kết toàn dân tộc.

Người xác định cách mạng Việt Nam muốn thắng lợi phải đoàn kết, liên minh với các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên toàn thế giới.  Do đó, ĐĐK toàn dân tộc phải gắn liền với ĐĐK quốc tế; chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Đây là mối quan hệ biện chứng. Người khẳng định phải có sự liên hệ chặt chẽ, đoàn kết, ủng hộ giúp đỡ lẫn nhau giữa cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa trong cách mạng vô sản thế giới và chính Người xây đắp mối quan hệ đoàn kết giữa Việt Nam với các nước trên thế giới. Trong đoàn kết quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức lưu ý phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, hữu nghị giữa các quốc gia; phải chống tư tưởng nước lớn, chống kỳ thị dân tộc, tránh sự tự ti, hẹp hòi, vị kỷ. ĐĐK dân tộc phải đi tới ĐĐK quốc tế, đoàn kết dân tộc là cơ sở cho thực hiện đoàn kết quốc tế. Phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam. 

Đại đoàn kết dựa trên các nguyên tắc bất biến: đặt lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của toàn dân lên trên hết và trước hết. Người đã chỉ ra mẫu số chung, điểm quy tụ của khối ĐĐK, đó là độc lập, tự do, thống nhất, hạnh phúc, dân chủ và giàu mạnh; với phương châm dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết, tất cả đều do con người và vì con người. Trong đoàn kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân. Người khái quát ngắn gọn mà sâu sắc “Gốc có vững, cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân(6). Khối ĐĐK phải đứng vững trên lợi ích chung của dân tộc, lợi ích cơ bản của giai cấp công nông, không rơi vào khuynh hướng thoả hiệp vô nguyên tắc. Đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đoàn kết rộng rãi nhưng chặt chẽ, không phải là đoàn kết tràn lan, không có sự lầm lẫn giữa bạn và thù. Người đã luôn nhắc nhở các đồng chí cán bộ Mặt trận: “Chủ nghĩa Mác - Lênin dạy chúng ta rằng: muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải phân biệt rõ ai là bạn ai là thù, phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù”(7)Người nêu rõ: Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết “Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân(8).                

Thấm nhuần tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, qua các kỳ Đại hội, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đề cao: ĐĐK là để thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng, ĐĐK trước hết phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, là nhiệm vụ của cả dân tộc phải thực hiện. Đại đoàn kết chính là đồng tâm hiệp lực phát huy sức mạnh toàn dân tộc và sức mạnh thời đại nhằm thực hiện mục tiêu của cách mạng là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng cốt lõi của ĐĐK là lấy dân làm gốc và kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công cuộc xây dựng đất nước. Trong các văn kiện, nghị quyết, Đảng đều nhấn mạnh quan điểm chủ đạo, xuyên suốt là coi đại đoàn kết là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp cách mạng. Đại đoàn kết trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đoàn kết là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu có ý nghĩa quyết định và bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng. Đại đoàn kết toàn dân trong điều kiện thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa một mặt phát huy được tính năng động của mỗi người, từ những người dân bình thường trực tiếp lao động, sản xuất và học tập đến đội ngũ lãnh đạo, quản lý, đều hăng say hoạt động với năng suất, chất lượng hiệu quả ngày càng cao; mặt khác, phải khắc phục được những tiêu cực của kinh tế thị trường, đặc biệt là tâm lý chạy theo đồng tiền, cạnh tranh không lành mạnh, làm phai nhạt truyền thống đoàn kết, tình nghĩa tương thân, tương ái của dân tộc.

 Trong đường lối, chiến lược, sách lược, Đảng luôn coi: Đại đoàn kết là phải đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu, lấy đó làm cơ sở xây dựng các chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội, xuất phát từ lợi ích dân tộc để mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi khả năng để xây dựng, phát triển đất nước. Trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước cần đoàn kết để xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu cũng như sự tụt hậu xa hơn về kinh tế, khoa học công nghệ so với các nước trong khu vực và thế giới, để thực hiện cho được mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để thực hiện được ĐĐK phải bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết hợp hài hòa các lợi ích; thực hiện dân chủ gắn liền với kỷ cương, chống quan liêu tham nhũng. Bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, tinh thần tự lực tự cường xây dựng và bảo vệ đất nước. Phát triển kinh tế đồng thời giải quyết thỏa đáng các chính sách xã hội và mối quan hệ giữa ba lợi ích: xã hội, tập thể, cá nhân; bảo đảm đời sống của người lao động không ngừng được cải thiện và nâng cao.

Trải qua 13 kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, bài học lớn mà chúng ta rút ra trong sự nghiệp cách mạng là dù khó khăn đến mấy, nếu biết đoàn kết đồng lòng, hiệp lực thì sẽ vượt qua. Do vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐĐK sẽ mãi mãi là ngọn nguồn tạo nên sức mạnh vô địch đưa cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi bởi“Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(9).

Quan điểm, chủ trương của Đảng về ĐĐK, về xây dựng khối ĐĐK toàn dân trong thời kỳ hội nhập quốc tế và xây dựng đất nước được tổng kết và khái quát rất rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), được thể chế hóa bằng các bản Hiến pháp (đặc biệt là Hiến pháp sửa đổi năm 2013) và nhiều văn bản pháp luật khác. Quan điểm ĐĐK toàn dân tộc, đi vào cuộc sống đã khơi dậy quyền làm chủ, sự năng động, sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân trên mọi lĩnh vực. Kết quả của các cuộc vận động “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”, “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, “Xây dựng, chỉnh đốn Đảng”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”… đã khẳng định đường lối ĐĐK toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là vô cùng đúng đắn.

Thành tựu 95 năm xây dựng Đảng, 80 năm xây dựng Nhà nước Việt Nam XHCN đã minh chứng, dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, các giai cấp, các tầng lớp nhân dân đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã có những đóng góp to lớn vào thành quả chung của đất nước, vào việc củng cố, tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Những thành quả đạt được trong công tác xây dựng Đảng, về xây dựng khối liên minh công - nông - trí đã góp phần củng cố niềm tin của đông đảo quần chúng nhân dân với Đảng, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh “với hơn 10 triệu người, chiếm gần 30% lực lượng lao động xã hội, có mặt trong tất cả các thành phần kinh tế, giữ vai trò nòng cốt tiếp thu và làm chủ khoa học, công nghệ tiên tiến, góp phần quan trọng vào việc hình thành các ngành công nghiệp hiện đại và sự tăng trưởng của nền kinh tế”(10). Giai cấp nông dân Việt Nam với truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, vượt khó với “gần 20 triệu người, chiếm hơn 47% lực lượng lao động xã hội”(11), góp phần vô cùng quan trọng trong công cuộc xây dựng nông thôn mới. Đội ngũ trí thức phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng “với 4,9 triệu người, chiếm hơn 11,5% lực lượng lao động xã hội, đi đầu trong các hoạt động khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội, giáo dục và đào tạo, phát triển kinh tế tri thức”(12) đã tạo ra nhiều giá trị khoa học, giá trị tinh thần, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đội ngũ thanh niên, phụ nữ, người cao tuổi, doanh nhân Việt Nam, các lực lượng vũ trang… phát huy truyền thống, phẩm chất để ngày đêm hăng say lao động, sáng tạo đóng góp khả năng và trí tuệ cho công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước, đảm bảo an sinh xã hội và đẩy nhanh tiến trình thực hiện CNH, HĐH đất nước.

Quan tâm, chăm lo, tập hợp, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, Đảng ta đặc biệt quan tâm giải quyết tốt vấn đề dân tộc, vấn đề tôn giáo trong xã hội. Với quan điểm dựng xây đất nước “Dân giàu, nước mạnh”, giảm dần khoảng cách phát triển giữa các dân tộc với nhau, giữa vùng thuận lợi phát triển với vùng đặc biệt khó khăn, giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc thiểu số (DTTS) với dân tộc đa số, giữa các DTTS với nhau trên nguyên tắc “Cộng đồng các dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển”, vùng DTTS và miền núi được ưu tiên hỗ trợ, đầu tư và phát triển. Đồng bào các DTTS trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc đã một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ làm cách mạng và ngày nay trong công cuộc dựng xây quê hương đất nước ngày càng có nhiều đóng góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo. “Với hơn 13 triệu người, chiếm 14,4% dân số cả nước, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào ngày càng được cải thiện trên cơ sở thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước và nỗ lực, sáng tạo của đồng bào các DTTS”(13). Đồng bào tín đồ các tôn giáo “khoảng 24 triệu người, chiếm gần 27% dân số cả nước”(14), đã tiếp tục phát huy truyền thống gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, “sống tốt đời, đẹp đạo”, tham gia các phong trào thi đua yêu nước, nỗ lực trong sản xuất, kinh doanh, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo, đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước. Bên cạnh đó, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cũng đã nêu cao tinh thần đoàn kết gắn bó với quê hương, đất nước, làm cầu nối góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập, tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam với các nước trên thế giới. Những đóng góp to lớn của các giai cấp, tầng lớp xã hội là những yếu tố cực kỳ quan trọng, là động lực chủ yếu đảm bảo ổn định chính trị - xã hội và thúc đẩy đất nước phát triển.

Trong những năm qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đã triển khai nhiều cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước có ý nghĩa thiết thực, được các tầng lớp nhân dân hưởng ứng, tham gia với tinh thần hăng hái và sáng tạo, đóng góp có hiệu quả vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhân dân, cán bộ, đảng viên đã tích cực hưởng ứng học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với nội dung ngày càng thiết thực, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” ở từng cơ quan, địa bàn dân cư, góp phần đề cao giá trị đạo đức trong xã hội, tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên, tăng cường gắn bó, đoàn kết giữa Đảng, chính quyền, nhân dân. Đặc biệt, công cuộc xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền núi, xây dựng nông thôn mới, đảm bảo an sinh xã hội... đấu tranh bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc và đã đạt được những thành quả rất quan trọng, cho thấy ĐĐK toàn dân tộc được phát huy cao độ trong giai đoạn hiện nay, luôn là căn nguyên cơ bản tạo sự chuyển biến mạnh trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Hiện nay, dưới sự chỉ đạo thống nhất của Chính phủ, các bộ, ngành triển khai đánh giá hiệu quả của hệ thống chính sách dân tộc, nhất là các chính sách giảm nghèo đã triển khai trong thời gian qua, để đề xuất định hướng chính sách từ năm 2021 đến năm 2025 và năm 2030. Với quan điểm là tạo điều kiện để đồng bào DTTS bình đẳng hơn trong tiếp cận các cơ hội việc làm, an sinh xã hội, thông tin, thị trường, giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực… Tăng cường thực hiện các mục tiêu thiên nhiên kỷ, không để ai bị bỏ lại phía sau. Để thực hiện mô hình tăng trưởng gắn với giảm nghèo nhanh và bền vững ở vùng dân tộc, thời gian tới cần có hệ thống giải pháp đồng bộ, có những giải pháp mang tính đột phá, tăng cường quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, áp dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0…

2. Ý nghĩa của tư tưởng đại đoàn kết đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam

Trong suốt sự nghiệp cách mạng, tư tưởng đại đoàn kết đã chứng minh là một trong những yếu tố quyết định mọi thắng lợi. Từ kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đến sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước, đoàn kết toàn dân luôn là điều kiện tiên quyết để biến ý chí của dân tộc thành hiện thực. Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định: “Không có đoàn kết thì việc nhỏ mấy cũng không làm xong. Có đoàn kết thì việc khó khăn mấy cũng làm được”.

Tư tưởng đại đoàn kết không chỉ có ý nghĩa trong đấu tranh giải phóng dân tộc mà còn giữ vai trò chiến lược trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh và hội nhập quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, khi các mâu thuẫn xã hội, sự khác biệt về lợi ích, văn hóa và tôn giáo có nguy cơ bị lợi dụng để gây chia rẽ, tư tưởng đại đoàn kết càng cần được vận dụng để định hướng dư luận, ổn định xã hội và bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Trước hết, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc khẳng định sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ rằng, cách mạng không thể thành công nếu thiếu sự đồng thuận, gắn bó của mọi tầng lớp nhân dân, mọi dân tộc anh em trong một khối thống nhất. Đại đoàn kết không chỉ là sự liên kết về mặt chính trị mà còn là sự hòa hợp về văn hóa, xã hội, kinh tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc Việt Nam. Đây là một trong những nhân tố quan trọng nhất giúp đất nước thoát khỏi ách thống trị của thực dân, đế quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc thể hiện tinh thần nhân văn sâu sắc, đề cao sự tôn trọng và phát huy vai trò của mọi thành phần xã hội, dân tộc, tôn giáo, và các tầng lớp nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng đoàn kết phải dựa trên nền tảng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, đồng thời biết dung hòa các lợi ích khác biệt để hướng tới mục tiêu chung vì sự nghiệp cách mạng và hạnh phúc của nhân dân. Tư tưởng này đã góp phần xóa bỏ những định kiến, hận thù giai cấp và dân tộc, tạo ra môi trường xã hội hòa bình, ổn định để phát triển.

Thứ ba, ý nghĩa của tư tưởng đại đoàn kết còn nằm ở chỗ nó tạo ra nguyên tắc tổ chức và phương thức vận động quần chúng đặc thù cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đại đoàn kết được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng linh hoạt, không chỉ trong giai đoạn kháng chiến mà còn trong xây dựng chính quyền mới, phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Đây là chiến lược then chốt để huy động sức mạnh toàn dân, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội trong việc xây dựng khối đại đoàn kết vững chắc.

Tư tưởng đại đoàn kết còn có ý nghĩa về mặt giáo dục và đạo đức cách mạng, góp phần xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa với tinh thần trách nhiệm, ý thức cộng đồng và lòng yêu nước sâu sắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh xem đại đoàn kết là biểu hiện cụ thể của đạo đức cách mạng và là nhân tố quyết định sự bền vững của cách mạng.

Tóm lại, tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh là nền tảng lý luận và thực tiễn quan trọng nhất, góp phần làm nên bản sắc riêng có của cách mạng Việt Nam. Ý nghĩa sâu sắc và giá trị trường tồn của tư tưởng này tiếp tục là kim chỉ nam cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong bối cảnh mới, đặc biệt trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc - nguồn lực chiến lược để bảo vệ độc lập, chủ quyền và phát triển bền vững đất nước.

Vì vậy, để vận dụng hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết trong điều kiện mới, cần nhìn nhận một cách khách quan các thách thức lớn đang đặt ra, bao gồm: (1) Đa dạng xã hội ngày càng cao, thể hiện ở sự phân hóa giàu nghèo, khoảng cách phát triển giữa các vùng miền, trình độ dân trí, và cơ hội tiếp cận dịch vụ công không đồng đều đang tạo ra những rào cản trong gắn kết xã hội. (2) Tác động của toàn cầu hóa và mạng xã hội dẫn đến những luồng tư tưởng đối lập, thông tin sai lệch, kích động dân tộc, tôn giáo, và chia rẽ xã hội có thể xâm nhập nhanh chóng nếu không có định hướng đúng đắn. (3) Xu thế cá nhân hóa, thực dụng trong xã hội thị trường đã và đang tiếp tục làm suy giảm tinh thần cộng đồng, trách nhiệm xã hội, gây ra sự thờ ơ chính trị và giảm sút niềm tin vào hệ thống chính trị - xã hội. (4) Một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức, quan liêu, tham nhũng làm xói mòn niềm tin của Nhân dân, gây tác động tiêu cực tới tinh thần đoàn kết và lòng yêu nước.

Những thực tế này đòi hỏi tư tưởng đại đoàn kết không chỉ dừng lại ở nhận thức hay khẩu hiệu, mà phải được thể hiện bằng hành động cụ thể, chính sách hiệu quả, tổ chức chặt chẽ và phương pháp linh hoạt.

3. Định hướng vận dụng tư tưởng đại đoàn kết trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay

Thứ nhất, xác lập rõ ràng mục tiêu đại đoàn kết trong chiến lược phát triển quốc gia, coi đó là động lực nội sinh thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế bền vững.

Thứ hai, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng và cơ hội phát triển cho các dân tộc, vùng miền, tôn giáo, giai tầng trong xã hội. Điều này bao gồm nâng cao hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, phát triển bền vững vùng đồng bào DTTS, thúc đẩy giáo dục và y tế công bằng.

Thứ batiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội: tăng cường phản biện xã hội, giám sát việc thực hiện quyền lực, làm cầu nối ý chí của Đảng với nguyện vọng của Nhân dân.

Thứ tư, nâng cao vai trò người có uy tín trong cộng đồng theo hướng đội ngũ trí thức, chức sắc tôn giáo, già làng, trưởng bản, nhà khoa học, doanh nhân... cần được khuyến khích tham gia vào các hoạt động xã hội, đối thoại chính sách và định hướng dư luận.

Thứ năm, phát triển văn hóa đoàn kết và tinh thần cộng đồng thông qua giáo dục, truyền thông, giao lưu văn hóa; đồng thời sử dụng hiệu quả công nghệ số để lan tỏa thông điệp đoàn kết trong giới trẻ và cộng đồng mạng.

Thứ sáutiếp tục xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với Nhân dân. Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, biết lắng nghe và hành động vì lợi ích chung, qua đó khơi dậy niềm tin, tạo dựng sự đồng thuận và gắn bó của toàn thể Nhân dân.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết là một di sản lý luận và thực tiễn có giá trị trường tồn trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đó không chỉ là chiến lược hành động trong các giai đoạn lịch sử trước đây mà còn là kim chỉ nam định hướng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh hiện nay và tương lai. Với quan niệm “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác lập đại đoàn kết toàn dân tộc như một nguyên lý phát triển, một phương châm tổ chức và một công cụ thực tiễn để huy động, kết nối mọi lực lượng xã hội vào mục tiêu chung của dân tộc. Bài học sâu sắc rút ra từ tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết là: để giữ vững khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trước hết phải kiên trì xây dựng một Đảng trong sạch, vững mạnh, gắn bó máu thịt với Nhân dân; một Nhà nước của dân, do dân, vì dân; một xã hội thượng tôn pháp luật, công bằng và nhân văn. Chỉ khi niềm tin được củng cố, dân chủ được thực thi thực chất và lợi ích chính đáng của mọi người dân được bảo đảm, thì tinh thần đại đoàn kết mới thực sự trở thành nội lực to lớn, góp phần đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững./.

TS Vũ Văn Ngân, Trường Đại học Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh

-----------------------------------------------------

Ghi chú:

(1), (3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb CTQG-ST, H.1996, tr.22, tr.154.

(2), (4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, sđd, tr.276, tr.392.

(5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, sđd, tr.438.

(6) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, sđd, tr.410.

(7) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, sđd, tr.605.

(8) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, sđd, tr.137.

(9)  Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XI, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.24.

(10), (11), (12), (13), (14) Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Báo cáo tại Đại hội ĐBTQ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2014 - 2019.

Đại đoàn kết toàn dân tộc là một trong những tư tưởng lớn, xuyên suốt và nhất quán trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Người khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” - một lời hiệu triệu mang giá trị trường tồn, khái quát vai trò sống còn của tinh thần đoàn kết đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam. Trong tư tưởng của Người, đại đoàn kết không chỉ là mục tiêu, mà còn là phương thức, là động lực để tập hợp, phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, bất kể thành phần, tôn giáo, dân tộc hay tầng lớp xã hội, cùng hướng tới lợi ích chung vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và hạnh phúc của Nhân d&aci

Tin khác cùng chủ đề

Sức mạnh trường tồn của Đảng là niềm tin của Nhân dân
Những thành tựu lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam 95 năm qua
Mùa xuân khơi dậy khát vọng phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới
Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng
Quan điểm phát triển văn hóa, con người trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Bảo đảm tính đảng và tính khoa học của khoa học lịch sử và khoa học chính trị trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch

Gửi bình luận của bạn