Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong khu vực công là một trong những yếu tố có tính quyết định về cải cách công vụ trong bối cảnh chuyển đổi số và thực hiện quản trị địa phương, thực hiện chính quyền địa phương hai cấp. Nội hàm của bài viết nêu lên những đặc điểm, yêu cầu và các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong khu vực công thực hiện quản trị địa phương trong bối cảnh sắp xếp, tổ chức bộ máy chính quyền địa phương hai cấp hiện nay.

Xây dựng nguồn nhân lực trong khu vực công đáp ứng quản trị địa phương theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp
Xây dựng nguồn nhân lực trong khu vực công đáp ứng quản trị địa phương theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp

1. Đặt vấn đề

Đất nước chúng ta đang thực hiện công cuộc cải cách tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị khá triệt để, quyết liệt thông qua việc sắp xếp lại cơ cấu tổ chức các bộ, ngành, tổ chức chính trị xã hội, nhất là chuyển đổi chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp trong bối cảnh thực hiện quản trị địa phương theo hướng tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả trên nền tảng ứng dụng khoa học -công nghệ, số hóa và đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI). Cuộc “cách mạng toàn diện” về tổ chức đang đặt ra nhiều thách thức trong xây dựng, phát triển nguồn nhân lực khu vực công. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phải đối mặt với nhiều thách thức mới, phải đáp ứng những yêu cầu mới về phẩm chất, năng lực trong vận hành mô hình quản trị địa phương của chính quyền địa phương hai cấp hiện nay. 

Trong thực tiễn triển khai sắp xếp bộ máy chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, ở cấp tỉnh không biến động lớn nhưng bộ máy chính quyền cấp xã  biến động cả về quy mô, tổ chức bộ máy, môi trường làm việc, phương thức vận hành, yêu cầu tác nghiệp. Bộ máy chính quyền địa phương cấp xã theo mô hình mới trung bình có 50% cán bộ, công chức từ cấp huyện về công tác, số còn lại là cán bộ, công chức cấp xã sở tại. Cán bộ, công chức cấp huyện (trước đây) thuần thục về pháp luật, tác nghiệp hành chính trung gian, xây dựng kế hoạch, triển khai, thực thi chính sách nhưng thiếu kinh nghiệm thực tiễn và tác nghiệp cụ thể, nhất là trong công tác dân vận, thực hiện cơ chế dân chủ cơ sở trong thực thi chính sách, pháp luật. Ngược lại, cán bộ, công chức cấp xã (trước đây), yếu về nhận thức pháp luật, chính sách, quy trình thao tác tham mưu về xây dựng kế hoạch, chủ trương phát triển kinh tế – xã hội và quản lý ở địa phương. 

Thực tiễn đó đang đặt ra đối với xây dựng, phát triển nguồn nhân lực khu vực công những yêu cầu mới. Đòi hỏi mỗi cán bộ, công chức, viên chức phải xử lý công việc nhanh hơn, nhiều hơn, hiệu quả hơn, năng suất cao hơn. Từ đó, áp lực trách nhiệm cá nhân ngày càng cao, yêu cầu mỗi người phải có năng lực tốt hơn, chuyên nghiệp hơn. Mỗi cán bộ, công chức, viên chức cần phải chuyển từ tư duy quản lý hành chính sang tư duy quản trị công hiện đại, hướng tới kết quả cụ thể. Đồng thời, cán bộ, công chức, viên chức phải thích nghi nhanh chóng với công nghệ số, ứng dụng AI trong công việc… Bối cảnh đó làm cho cán bộ, công chức, viên chức có nguy cơ bị lạc hậu, bị bỏ lại phía sau nếu không được đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kịp thời1. Vì vậy, trong xây dựng, phát triển nguồn nhân lực trong khu vực công, nhất là cấp xã cần phải thực sự đổi mới mạnh mẽ theo những yêu cầu, tiêu chí mới, đáp ứng yêu cầu quản trị của chính quyền địa phương hai cấp hiện nay.

2. Đặc điểm quản trị địa phương

Theo nghĩa rộng, quản trị địa phương bao gồm những thiết chế chính quyền địa phương và cả những thiết chế phi chính thức ở địa phương, như: các quy phạm xã hội, các mạng lưới xã hội, các tổ chức cộng đồng… và mối quan hệ giữa công dân – Nhà nước cùng với các cơ chế ra quyết định, cung cấp dịch vụ ở cấp địa phương. Quan niệm này là cơ sở để xây dựng một nền quản trị địa phương phản ứng nhanh, nhạy trước những đòi hỏi của người dân, nhất là trong thời kỳ phát triển và tăng trưởng kinh tế hiện nay gắn với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Quản trị địa phương theo nghĩa hẹp là hoạt động thực thi thẩm quyền nhà nước tại địa phương trên cơ sở luật định của các cấp chính quyền địa phương cùng với sự tham gia của các tầng lớp nhân dân ở địa phương vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách công nhằm hướng tới sự đồng thuận, trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương, bảo đảm tính công khai, minh bạch, hiệu quả, hiệu năng, công bằng đối với tất cả các đối tượng quản trị của chính quyền địa phương.

Về tính chất, quản trị địa phương theo nghĩa này được hiểu là sự hướng đến xây dựng một chính quyền gần dân nhằm tạo điều kiện để người dân tham gia nhiều hơn vào các công việc của địa phương, từ đó tăng cường tính trách nhiệm giải trình của lãnh đạo địa phương trong ban hành và thực thi các quyết sách của địa phương ở từng giai đoạn phát triển.

Trên nền tảng quản trị quốc gia, quản trị địa phương thực hiện chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của chính quyền địa phương do pháp luật quy định. Đặc điểm, tính chất của quản trị địa phương mang bản chất và vai trò của Nhà nước. Chính quyền địa phương là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước nên mang tính quyền lực nhà nước, là tổ chức đại diện cho nhân dân địa phương, thay mặt nhân dân và cộng đồng dân cư ở địa phương quản trị các công việc của địa phương nhằm thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp luật quy định. Vì vậy, quản trị địa phương có các đặc điểm chủ yếu sau:

Một là, mục tiêu, mục đích của quản trị địa phương là bảo đảm duy trì trật tự an ninh, an toàn xã hội trên địa bàn địa phương; phục vụ lợi ích của cộng đồng dân cư ở địa phương, bảo đảm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Điều này thể hiện ở chỗ, quá trình quản trị cần căn cứ vào đặc điểm, nguồn lực cũng như quy mô và nhu cầu của dân cư ở địa phương để xây dựng kế hoạch, chiến lược cho sự phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh ở địa phương.

Hai là, quản trị địa phương đa dạng về chủ thể tham gia vào quá trình quản lý xã hội, bao gồm: Nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức xã hội và công dân. Trong đó, một chính quyền địa phương có năng lực và trách nhiệm, một thị trường cũng như hệ thống doanh nghiệp có hiệu quả và một mạng lưới các tổ chức xã hội, người dân gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước. Chính quyền địa phương là chủ thể quản trị địa phương quan trọng nhất, có ý nghĩa quan trọng quyết định đối với hiệu quả quản trị địa phương. Tuy nhiên, chính quyền địa phương không phải là chủ thể duy nhất tham gia vào quản trị địa phương. Chủ thể của quản trị địa phương còn có các doanh nghiệp, cộng đồng nhân dân địa phương, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức nghề nghiệp, tổ chức phi chính phủ ở địa phương và công dân đang sinh sống, làm việc tại địa phương với tư cách là người tham gia quản lý, giám sát việc quản trị của chính quyền địa phương đối với các dự án, chương trình, kế hoạch mà pháp luật quy định hoặc do cơ quan quản lý nhà nước cấp trên phân cấp, ủy quyền hoặc phân quyền.

Ba là, quản trị địa phương có đối tượng quản trị rộng và phức tạp, gồm toàn bộ các tổ chức, cá nhân, công dân sinh sống và hoạt động trong phạm vi lãnh thổ ở địa phương. Quản trị địa phương đòi hỏi cần gia tăng sự tương tác giữa các chủ thể liên quan. Đó là sự chia sẻ tầm nhìn, trách nhiệm và thực hiện tầm nhìn phát triển địa phương. Quá trình phối hợp giữa các chủ thể quản trị địa phương không phải là quá trình một chiều từ phía chính quyền địa phương mà luôn có sự tương tác giữa nhà nước với doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, người dân… nhằm tìm ra điểm cân bằng và lợi ích chung, lợi ích Nhà nước và lợi ích của doanh nghiệp, lợi ích cộng đồng xã hội.

Bốn là, vai trò của chính quyền địa phương trong quản trị địa phương không chỉ là người thiết lập các quy tắc và thể chế để giải quyết thất bại của thị trường, không chỉ là người cầm lái mà còn là chủ thể sáng tạo giá trị công. Chính quyền địa phương không chỉ tập trung sự chú ý vào bộ máy nhà nước, tính hiệu quả và trình tự ưu tiên trong công việc mà cần nhìn ra bên ngoài, từ đó kết nối, liên hệ rộng rãi và thực hiện sự tương tác, trao đổi với tổ chức xã hội, cộng đồng doanh nghiệp, người dân để tìm ra những giá trị công ưu tiên cho mỗi giai đoạn phát triển.

Năm là, nguồn lực quản trị địa phương được mở rộng và đa dạng hóa. Trong quản trị địa phương, chính quyền địa phương không chỉ dựa vào sức mạnh và nguồn lực của mình để giải quyết các vấn đề công, cung ứng dịch vụ công mà còn nhấn mạnh đến sức mạnh và nguồn lực của xã hội, người dân và thị trường trong quản lý xã hội cũng như tích hợp các nguồn lực của khu vực công và khu vực tư để giải quyết có hiệu quả các vấn đề công, cung ứng dịch vụ công và thực hiện lợi ích công.

Sáu là, quản trị địa phương nhấn mạnh đến các trọng tâm: (1) Tính pháp quyền trong thực hiện quyền lực công. Điều này có nghĩa là, không chỉ trong ban hành chính sách mà trong cả quá trình thực hiện chính sách đều phải tuân thủ pháp luật, các cơ quan công quyền không thể ban hành các quyết định vượt phạm vi, thẩm quyền được pháp luật quy định. (2) Tính minh bạch. Trong ban hành, thực thi chính sách và các quyết định hành chính, các đối tượng chịu tác động của chính sách phải được biết, được tham gia, người dân được thông tin, thậm chí giám sát cả quá trình ban hành và thực thi chính sách. (3)Trách nhiệm giải trình. Chính quyền địa phương khi ban hành chính sách phải có trách nhiệm giải trình về mục đích ban hành, tác động xã hội của chính sách; đồng thời, phải chịu trách nhiệm về hậu quả của chính sách theo đúng thẩm quyền. (4) Sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách. Theo đó, người dân phải được cung cấp thông tin, được tạo điều kiện để đóng góp, thể hiện quan điểm của mình trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách, đặc biệt trong một số trường hợp, người dân được trực tiếp tham gia vào quá trình ban hành chính sách. (5) Công bằng và không loại trừ. Đây là đặc điểm mang tính tiến bộ, tích cực của chế độ xã hội, khi mà lợi ích của người dân, các nhóm xã hội được cân bằng và coi trọng như nhau trong quá trình ban hành và thực thi chính sách, không ai bị bỏ lại phía sau, đặc biệt nhóm người yếu thế phải có cơ hội, tiếng nói tham gia vào quá trình quản trị. (6) Nhanh nhạy, phản ứng tương thích, kịp thời. (7) Quản trị địa phương tại mỗi cấp có quyền tự quản nhất định về chức năng, nhiệm vụ, bộ máy, ngân sách phù hợp với điều kiện địa phương và theo quy định của pháp luật.

3. Yêu cầu cơ bản đối với nguồn nhân lực trong thực hiện quản trị địa phương theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thứ nhất, cán bộ, công chức vừa là chủ thể trong tham mưu hoạch định, ban hành, triển khai thực hiện chính sách. Tuân thủ pháp luật, đồng thời, phải chú trọng đến các yếu tố đa chủ thể trong quản trị địa phương, đó là ngoài chính quyền địa phương còn có các chủ thể khác: doanh nghiệp, cộng đồng, người dân…. Mọi hoạch định, ban hành, thực hiện chính sách không chỉ còn là độc quyền của chính quyền địa phương mà cần phải phối hợp, tham khảo ý kiến của người dân, doanh nghiệp, đặc biệt thực hiện triệt để cơ chế dân chủ theo tinh thần Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện pháp luật, chính sách.

Thứ hai, quản trị địa phương không còn là sự vận hành chủ thể Nhà nước theo cơ chế một chiều mà là sự chuyển đổi vận hành theo cơ chế phối hợp, liên kết, gia tăng sự tương tác, đồng thuận giữa các chủ thể quản lý, trong đó chính quyền địa phương đóng vai trò chủ đạo. Mối tương tác giữa chính quyền địa phương với doanh nghiệp, tổ chức xã hội, người dân… nhằm tìm ra điểm cân bằng và lợi ích chung, lợi ích của Nhà nước, lợi ích của doanh nghiệp, lợi ích xã hội, người dân… được nhấn mạnh. Điều đó đòi hỏi nguồn nhân lực trong khu vực công phải thay đổi căn bản chất lượng, tính chuyên nghiệp và phương thức thực thi công vụ.

Thứ ba, cơ chế vận hành quản trị địa phương cho phép sự huy động tối đa các nguồn lực xã hội cho lợi ích chung. Nguồn lực của doanh nghiệp, người dân và Nhà nước tạo nên sức mạnh tổng hợp trong phát triển địa phương. Vấn đề đặt ra là đội ngũ cán bộ, công chức phải có năng lực huy động được các nguồn lực xã hội tham gia giải quyết các vấn đề của địa phương. Điều đó đòi hỏi cán bộ, công chức không chỉ am hiểu pháp luật mà còn có khả năng thuyết phục, minh bạch, giải trình và mẫu mực trong thực thi công vụ, qua đó, tạo niềm tin cho doanh nghiệp, cộng đồng, người dân trong tham gia vào các cơ chế xã hội hóa nguồn lực để giải quyết các vấn đề địa phương đặt ra.

Bốn là, quản trị địa phương được thiết kế trên một nền hành chính công gọn nhẹ, coi trọng tính hiệu quả xã hội, đặc biệt là sự hài lòng của người dân; vận hành trong môi trường hiện đại, chính phủ số. Nguồn nhân lực trong khu vực công phải thích ứng với môi trường hành chính công tốt, đề cao trách nhiệm đối với lợi ích chung, trong đó có Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng. Điều đó đòi hỏi cán bộ, công chức, viên chức phải có kỹ năng chuyên nghiệp trong môi trường chính phủ điện tử, chính phủ số và tinh thần phục vụ vì lợi ích chung.

4. Một số giải pháp 

Một là, tập trung nâng cao nhận thức về sự chuyển đổi từ mô hình quản lý nhà nước sang quản trị địa phương trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Để thay đổi điều đó, trước hết cán bộ, công chức, viên chức nhận thức được vai trò của Nhà nước; vai trò của doanh nghiệp, cộng đồng và sự hợp tác với các chủ thể ngoài nhà nước trong giải quyết các vấn đề của xã hội là xu hướng tất yếu, qua đó,đổi mới trách nhiệm, hành vi công vụ theo hướng tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. 

Hai là, quản trị địa phương đòi hỏi đội ngũ cán bộ với những tiêu chuẩn khác biệt hiện nay nhằm đáp ứng môi trường công vụ mới đó là tính chuyên nghiệp, tinh thần phục vụ, trách nhiệm, khả năng phối hợp, kết nối, giải trình và làm việc trong môi trường số. Để tạo ra sự thay đổi đó, cần có quá trình vận động, nâng cao nhận thức của đội ngũ này để sớm thích ứng, không ngừng nâng cao năng lực, kỹ năng để đáp ứng với yêu cầu thực thi công vụ của quản trị địa phương.    

Ba là, tiếp tục xây dựng quy hoạch cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực khu vực công theo hướng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cơ bản, lâu dài, có tính đến nhu cầu và khả năng phát triển gắn với các tiêu chí, yêu cầu của quản trị địa phương. Đặc biệt xây dựng các tiêu chí đối với cán bộ, công chức, viên chức phù hợp với mô hình tổ chức bộ máy mới. Tăng cường bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức (cấp huyện trước đây) nhận nhiệm vụ ở cấp xã về tính thực tiễn, tác nghiệp cụ thể; nâng cao năng lực, kiến thức, kỹ năng tham mưu áp dụng pháp luật, thực thi chính sách cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã (trước đây) trong thực hiện nhiệm vụ ở cấp xã mới. Đây vừa là giải pháp, vừa là nhiệm vụ xây dựng, hoạch định phát triển đội ngũ cán bộ, công chức cấp thiết hiện nay.

Bốn là, thực hiện tốt chế độ quản lý cán bộ, công chức, viên chức, nhất là quản lý chất lượng chính trị; bảo vệ vững chắc chính trị nội bộ. Biểu dương khen thưởng đúng mức các cán bộ, công chức, viên chức có thành tích với việc kiên quyết xử lý nghiêm những cán bộ, công chức, viên chức thoái hóa biến chất, vi phạm pháp luật. Theo đó, kiên quyết đấu tranh loại bỏ những phần tử hư hỏng, suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; chống mọi biểu hiện chạy chức, chạy quyền, cục bộ, ưu ái tuyển dụng người nhà, người thân không đủ tiêu chuẩn. Phát huy dân chủ, nâng cao ý thức trách nhiệm, nêu gương, tinh thần phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức, viên chức. Sớm nghiên cứu, ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích và bảo vệ những tổ chức và cá nhân dám đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm2

Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức. Chú trọng thực hiện nghiêm công tác kiểm tra, kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền và các biểu hiện tiêu cực khác. Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong từng khâu của công tác cán bộ, nhất là đối với người đứng đầu. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong công tác cán bộ, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong thực thi công vụ; nâng cao đạo đức, văn hóa, tính chuyên nghiệp của cán bộ. Kiên trì, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực gắn với đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách để “không thể, không dám, không muốn, không cần tham nhũng3

Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, quán triệt và triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về đổi mới mạnh mẽ, toàn diện công tác cán bộ. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện tinh giảnbiên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm. Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế lựa chọn, đánh giá, sàng lọc để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Làm tốt công tác tư tưởng; giải quyết kịp thời chế độ, chính sách đối với các trường hợp do ảnh hưởng trong quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế.

5. Kết luận

Thực hiện quản trị địa phương theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp là một nội dung cơ bản của “quản trị quốc gia” theo hướng hiện đại, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả; là một trong những trọng tâm đột phá mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định. Để thực hiện thành công việc đổi mới “quản trị địa phương”, cuộc “cách mạng về tổ chức bộ máy” theo mô hình chính quyền địa phương mới đòi hỏi nguồn nhân lực trong khu vực công những tiêu chí mới, phù hợp với đặc điểm, yêu cầu của quản trị địa phương. Trên lĩnh vực cán bộ, cần đổi mới cả về tư duy lẫn hành động của cả hệ thống chính trị và hệ thống xã hội về nguồn nhân lực trong khu vực công. Chú trọng việc nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong thích ứng với những tiêu chí của quản trị quốc gia và chính quyền địa phương hai cấp thông qua đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng quản trị, vận động, phối hợp, minh bạch, giải trình và chịu trách nhiệm. Bên cạnh đó, việc xây dựng một môi trường làm việc minh bạch, dân chủ và khuyến khích sáng tạo sẽ giúp đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức địa phương phát huy tối đa năng lực, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả quản trị, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.

Chú thích: 

1. Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả. https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/03/25/doi-moi-cong-tac-dao-tao-boi-duong-can-bo-cong-chuc-vien-chuc-dap-ung-yeu-cau-quan-tri-quoc-gia-hien-dai-hieu-qua/

2, 3. Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ nhiệm kỳ 2021 – 2026. https://vtv.vn/chinh-tri/toan-van-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-tai-phien-hop-dau-tien-cua-chinh-phu-nhiem-ky-2021-2026-2021081117580912.htm

Tài liệu tham khảo:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia sự thật.

2. Những vấn đề cơ bản về đổi mới quản trị quốc gia ở nước ta hiện nay.https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/824506/nhung-van-de-co-ban-ve-doi-moi-quan-tri-quoc-gia-o-nuoc-ta-hien-nay.aspx

3. “Quản trị quốc gia” ở Việt Nam: Một số vấn đề từ hướng tiếp cận xã hội học.https://tcnn.vn/news/detail/55378/%E2%80%9CQuan-tri-quoc-gia%E2%80%9D-o-Viet-Nam-Mot-so-van-de-tu-huong-tiep-can-xa-hoi-hoc.html

4. WB (1992). World Development report: Governance and Development. Washington DC.

ThS. Nguyễn Lê Bảo Ngọc
Học viện Chính trị khu vực III

1. Đặt vấn đề Đất nước chúng ta đang thực hiện công cuộc cải cách tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị khá triệt để, quyết liệt thông qua việc sắp xếp lại cơ cấu tổ chức các bộ, ngành, tổ chức chính trị xã hội, nhất là chuyển đổi chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp trong bối cảnh thực hiện quản trị địa phương theo hướng tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả trên nền tảng ứng dụng khoa học -công nghệ, số hóa và đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI). Cuộc “cách mạng toàn diện” về tổ chức đang đặt ra nhiều thách thức trong xây dựng, phát triển nguồn nhân lực khu vực công. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phải đối mặt với nhiều thách thức mới, phải đáp ứng những yêu cầu mới về phẩm chất, năng lực

Tin khác cùng chủ đề

Sức mạnh trường tồn của Đảng là niềm tin của Nhân dân
Những thành tựu lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam 95 năm qua
Mùa xuân khơi dậy khát vọng phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới
Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng
Quan điểm phát triển văn hóa, con người trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
Bảo đảm tính đảng và tính khoa học của khoa học lịch sử và khoa học chính trị trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch

Gửi bình luận của bạn