Cách đây 50 năm, Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã kết thúc thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kéo dài 21 năm (1954-1975), giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Thắng lợi đó “…mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”1. Đại thắng mùa Xuân 1975 đã để lại nhiều bài học quý đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong đó, bài học về ý chí và sức mạnh Việt Nam là vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc.

Bài học về ý chí và sức mạnh Việt Nam sau 50 năm thống nhất đất nước
Bài học về ý chí và sức mạnh Việt Nam sau 50 năm thống nhất đất nước

1. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố then chốt nhân lên ý chí và sức mạnh Việt Nam 

Thực tiễn lịch sử đã minh chứng: “thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta”2. Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đây là bài học kinh nghiệm quý, là nhân tố then chốt nhân lên ý chí và sức mạnh Việt Nam sau 50 năm thống nhất đất nước. 

Phát huy thắng lợi của Đại thắng mùa Xuân 1975, trong thời kỳ cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội (1975-1986), Đảng tiếp tục bổ sung lý luận và thực tiễn về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Đại hội IV (1976) của Đảng khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là hạt nhân lãnh đạo nền chuyên chính vô sản ở nước ta. Đảng có nhiệm vụ thống nhất, lãnh đạo mọi hoạt động của Nhà nước và của xã hội, tập trung nỗ lực của toàn dân, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trong cả nước, bảo vệ độc lập, thống nhất vĩnh viễn của Tổ quốc”3; “Đảng không ngừng củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của mình đối với các đoàn thể và tổ chức quần chúng bằng cách làm cho đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước được quán triệt và biến thành hành động tự giác của quần chúng, thông qua công tác giáo dục, tuyên truyền, vận động, thuyết phục của cán bộ, đảng viên trong các tổ chức đó”4

Đến Đại hội V (1982) của Đảng, Đảng nhấn mạnh: “Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng kết hợp chặt chẽ với phát huy hiệu lực quản lý của Nhà nước và thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”. Bởi “vấn đề then chốt và cấp bách của Đảng ta hiện nay là phải nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, nhất là lãnh đạo về kinh tế - xã hội. Để làm tốt việc đó và để xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc, một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của Đảng là phải lãnh đạo xây dựng và tăng cường bằng được bộ máy Nhà nước, phát huy một cách tốt nhất hiệu lực của bộ máy Nhà nước; đồng thời, chăm lo củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể quần chúng”5.

Tháng 12-1986, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội VI của Đảng đề rađường lối đổi mới toàn diện, đánh dấu bước ngoặt trên hành trình quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Đối với vai trò lãnh đạo của Đảng, Đại hội chỉ rõ: “Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác”6. Đại hội khẳng định: “ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM là hạt nhân lãnh đạo nền chuyên chính vô sản ở nước ta. Đảng có nhiệm vụ thống nhất lãnh đạo mọi hoạt động của Nhà nước và xã hội, tập trung nỗ lực của toàn dân, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trong cả nước, bảo vệ độc lập, thống nhất vĩnh viễn của Tổ quốc”7.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, chỉ rõ: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên… Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo hệ thống trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy… Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo8

Đến năm 2011, Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hàng động gương mẫu của đảng viên (…) Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị”9.

Trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII và những thành tựu đạt được sau 35 năm đổi mới, Đại hội XIII (2021) của Đảng khẳng định: Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện…, góp phần nâng cao vị thế cầm quyền, khẳng định vai trò lãnh đạo, đường lối đúng đắn của Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng; đã “ban hành và thực hiện nhiều quy định bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng”10.

Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng đã trực tiếp nhân lên ý chí và sức mạnh Việt Nam, để 50 năm sau ngày thống nhất đất nước: “Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ thấp, bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu, rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại”11. Tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, quốc phòng, an ninh không ngừng được nâng cao. Năm 2024, tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt 7,09%; quy mô nền kinh tế đạt khoảng 470 tỷ USD, đứng thứ 33, giá trị thương hiệu quốc gia đạt 507 tỷ, xếp thứ 32/193 nước; xuất khẩu đạt khoảng 405 tỷ USD; thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên 31 tỷ USD12Độc lập, chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Uy tín và vị thế của Việt Nam không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. 

Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử sau 50 năm thống nhất đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng là sự kết tinh của ý chí, sức sáng tạo; là kết quả của quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục, khẳng định sức mạnh Việt Nam; đồng thời, tiếp tục khẳng định con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn Việt Nam cũng như xu thế phát triển của thời đại. Nói cách khác, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố then chốt nhân lên ý chí và sức mạnh Việt Nam, nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, là minh chứng khẳng định: “Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ năng lực, bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm và uy tín để lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”13.  

2. Lòng yêu nước và tinh thần tự tôn, tự hào dân tộc - Sức mạnh để Việt Nam giành những thắng lợi mới sau 50 năm thống nhất đất nước

Tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc là giá trị cơ bản trong hệ giá trị truyền thống của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Song, tư tưởng ấy được hình thành sớm hay muộn, đậm hay nhạt lại tùy thuộc vào điều kiện lịch sử đặc thù của mỗi quốc gia, dân tộc. Đối với dân tộc Việt Nam, lòng yêu nước, tự hào dân tộc không chỉ là một tình cảm tự nhiên, mà nó còn là sản phẩm của lịch sử, được hun đúc từ chính lịch sử đau thương mà hào hùng của dân tộc Việt Nam. Lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập. Vì vậy, tinh thần yêu nước đã ngấm sâu vào tình cảm, vào tư tưởng của mỗi người dân Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, tạo nên sức mạnh vô địch, giúp dân tộc ta chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Điều này được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”14Phát huy truyền thống quý báu đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, một lần nữa tinh thần yêu nước nồng nàn và ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc được khơi dậy, phát triển mạnh mẽ, với quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, để “Nam - Bắc một nhà”. 

Thực tiễn lịch sử đã minh chứng, chính lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc đã tạo nên sức mạnh chính trị - tinh thần vô cùng lớn của quân và dân Việt Nam nguồn sức mạnh vô địch để chiến thắng kẻ thù xâm lược. Đó cũng là một trong những nhân tố hàng đầu làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Về vấn đề này, trong cuốn Hồi ký “Nhìn lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam”, R. Mắc Namara (Robert S.Mc Namara), nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ thời kỳ chiến tranh Việt Nam đã không chỉ thừa nhận thất bại của Mỹ ở Việt Nam, coi đó là “một thảm kịch”, mà còn thừa nhận cuộc chiến tranh do Mỹ gây ra do những sai lầm về chính trị của nhiều đời Tổng thống. Trong đó, việc Mỹ đánh giá thấp sức mạnh tinh thần dân tộc của người Việt Nam và cách nhìn nhận về bạn và thù phản ánh sự không hiểu biết của Mỹ về lịch sử, văn hóa và chính trị của nhân dân Việt Nam15 đã khiến Mỹ thất bại. Kế thừa bài học kinh nghiệm đó, trong suốt 50 năm qua, lòng yêu nước và tinh thần tự tôn, tự hào dân tộc đã được nâng lên một tâm cao mới, để Việt Nam giành những thắng lợi mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

Trong tiến trình cách mạng 50 năm sau ngày đất nước thống nhất, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm, coi trọng khơi dậy tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc. Đảng và Nhà nước đã ban hành chủ trương, chính sách để khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí tự tôn và tự hào dân tộc để xây dựng và phát triển đất nước. Kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần tự tôn, tự hào dân tộc, Đại hội VI của Đảng đã khẳng định khát vọng lớn của dân tộc Việt Nam: “Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội” 16. Năm 1998, nhằm chấn hưng văn hóa dân tộc, Nghị quyết HNTƯ 5, khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã chỉ rõ nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam là: “Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”17. Đặc biệt, Đại hội XIII của Đảng xác định, văn hóa là sức mạnh nội sinh, sức mạnh mềm của dân tộc để xây dựng đất nước phát triển nhanh, bền vững, theo đúng định hướng XCNH. Đại hội nhấn mạnh: khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; khơi dậy mọi tiềm năng, sức sáng tạo của mỗi người Việt Nam, lấy ấm no và hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu18

Quán triệt tinh thần đó, phát huy lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc, nhân dân Việt Nam đã giành được nhiều thắng lợi trong phát triển kinh tế19, văn hóa, xã hội; đảm bảo quốc phòng, an ninh; mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế, làm cho “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”20. Hiện nay, nhiều trào lưu thể hiện lòng yêu nước, tự hào dân tộc của giới trẻ được lan tỏa rộng rãi trên các nền tảng mạng xã hội. Tiêu biểu như trào lưu “Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta” xuất hiện vào dịp Lễ 30-4 và 1-5. Trong các clip, giới trẻ đã hóa thân thành nhiều hình tượng khác nhau như: Bộ đội, công an, mẹ Việt Nam Anh hùng, giáo viên, đoàn viên thanh niên...; qua đó, thể hiện niềm tự hào, lòng yêu nước và khát khao cống hiến, để cùng chung tay, góp sức xây dựng đất nước “đàng hoàng hơn”, “to đẹp hơn”, vươn lên sánh vai với các cường quốc năm châu như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời.

3. Tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc - Sự kết tinh của ý chí và sức mạnh Việt Nam được phát huy lên tầm cao mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơi dậy và phát huy cao độ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh to lớn, với tinh thần “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công”. Đó là sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân, đoàn kết hai miền Nam - Bắc và đoàn kết chặt chẽ giữa quân đội và các tầng lớp nhân dân; đoàn quốc tế. Nhờ có sự đoàn kết, thống nhất về ý chí và hành động, Đảng đã phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của cả nước, với các khẩu hiệu “tay cày, tay súng”, “tay búa, tay súng”; với tinh thần “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người, “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”; vừa xây dựng, vừa chiến đấu bảo vệ miền Bắc, sẵn sàng chi viện, đáp ứng mọi nhu cầu của tiền tuyến miền Nam. Tại miền Nam, dù phải chịu sự đàn áp dã man, tàn bạo của địch, nhưng với ý chí bất khuất, kiên cường, quân và dân miền Nam vẫn một lòng, một dạ đi theo cách mạng, tin tưởng sắt đá vào sự lãnh đạo của Ðảng, vào sự nghiệp thống nhất đất nước; anh dũng chiến đấu để giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Ở nước ngoài, muôn triệu trái tim Việt kiều yêu nước đã hướng về Tổ quốc, đóng góp vật chất, công sức hoặc cùng với nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hòa bình mở ra mặt trận đấu tranh trên thế giới và trong “lòng địch”, góp phần xứng đáng vào ngày toàn thắng của dân tộc”21. Đến trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã phát triển tới đỉnh cao, với tinh thần “Một ngày bằng hai mươi năm”, tiến lên giành thắng lợi quyết định, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. 

 Ðại thắng mùa Xuân năm 1975 là chiến thắng của toàn thể dân tộc Việt Nam với “lòng yêu nước nồng nàn và chủ nghĩa anh hùng cách mạng tuyệt vời của đồng bào, chiến sĩ, cán bộ, đảng viên thuộc tất cả các dân tộc anh em từ Nam đến Bắc đã đoàn kết chiến đấu không mệt mỏi vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc”22. Khẳng định sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong Đại thắng mùa Xuân 1975, khi trả lời phỏng vấn các nhà báo và học giả phương Tây, Đại tướng Văn Tiến Dũng đã nhấn mạnh: “Một lần nữa tôi muốn nói rõ rằng nguồn gốc mọi thắng lợi của chúng tôi là sức mạnh của cả một dân tộc vùng lên làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình trong thời đại ngày nay. Và Ban lãnh đạo chúng tôi biết khai thác, biết phát huy tất cả những sức mạnh đó để chiến thắng”23

Kế thừa những giá trị cốt lõi được đúc kết trong Đại thắng mùa Xuân 1975, bài học về phát huy tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc đã được nâng lên tầm cao mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bởi lẽ, đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết 54 dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các tôn giáo; đoàn kết đồng bào trong nước và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là đường lối chiến lược nhất quán của Đảng. Trong suốt 50 năm qua kể từ ngày thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đề ra đường lối, chính sách, pháp luật nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất để mỗi giai cấp, tầng lớp, lực lượng và cá nhân phấn đấu vì lợi ích chính đáng và đóng góp ngày càng nhiều hơn, có hiệu quả hơn cho sự phát triển của đất nước. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nguyên tắc: lấy mục tiêu chung là giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc làm điểm tương đồng; đồng thời, bảo đảm hài hoà lợi ích riêng của mỗi bộ phận, giai cấp, lực lượng xã hội, cá nhân không trái với lợi ích chung.

Đối với các giai cấp, tầng lớp xã hội, Đảng xác định: Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng; có ý thức công dân, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu cho tinh hoa văn hoá của dân tộc; nhạy bén và vững vàng trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và những biến đổi của tình hình trong nước; có tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết hợp tác quốc tế, thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Trung ương Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong đó nhấn mạnh mục tiêu không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh đã trực tiếp nâng cao tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững.

Bên cạnh đó, vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước Việt Nam. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn kiên định thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển. Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hoá, ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng của các dân tộc. Chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là dân tộc thiểu số. Đảng và Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật. Nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia... 

Đặc biệt, Đảng luôn xác định đồng bào định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước. Trong suốt 50 năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã mọi tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ đồng bào ổn định cuộc sống, chấp hành tốt pháp luật của nước sở tại; bảo vệ quyền lợi chính đáng của đồng bào, đồng thời có chính sách khuyến khích người Việt Nam, trí thức Việt Nam ở nước ngoài hướng về quê hương, góp phần xây dựng đất nước. Tinh thần hướng về quê hương, đất nước trong kiều bào ngày càng đậm nét và sâu sắc hơn; qua đó, góp phần hun đúc ý chí, sức mạnh Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước thời kỳ mới. 

50 năm sau ngày đất nước thống nhất, ý chí và sức mạnh Việt Nam trong Đại thắng mùa Xuân 1975 đã được nâng lên một tầm cao mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, ý chí và sức mạnh Việt Nam đã biến thành sức mạnh vật chất, sức mạnh tinh thần to lớn để nhân dân Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, giành nhiều thắng lợi mới trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, với ý chí, sức mạnh Việt Nam và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân sẽ đồng lòng vượt qua mọi khó khăn, thách thức, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trong kỷ nguyên mới, xây dựng một tương lai huy hoàng, rạng rỡ cho dân tộc Việt Nam.

Ngày nhận:24-4-2025; ngày thẩm định 28-4-2025; ngày duyệt đăng 29-4-2025
* Viện trưởng Viện Lịch sử 
Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
** Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Kiểm sát

1, 3, 4. 22. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H, 2004, T. 37, tr. 471, 851-852, 884, 981

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb ST, H, 1977, tr. 22

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H, 2004, T. 43, tr. 300

6, 7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H, 2006, T. 47, tr. 458, 581-582

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H, 2006, T. 51, 2007, tr. 147 

9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr. 88-89

10, 20. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H, 2021, T. I, tr. 73-76, 103-104

11. Xem:  Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng, báo Nhân Dân, ngày 1-2-2024.  

12. Theo Tổng cục Thống kê năm 2024.

13. Tô Lâm: Rạng rỡ Việt Nam, báo Nhân Dân, ngày 3-2-2025. 

14. Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, H, 2011, T. 7, tr. 38.

15. Xem: Robert McNamara: “11 sai lầm của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam”, Dân trí, ngày 22-4-2005

16. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Phần I, (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb CTQG, H, 2019, tr. 38

17. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb CTQG, H, 1998, tr. 58 - 59

18. Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H, 2021, T. I, tr. 34; Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb CTQGST, H, 2023, tr. 142, 152

19. Tính chung cả năm 2024 đạt và vượt toàn bộ 15 chỉ tiêu chủ yếu, trong đó có những kết quả nổi bật trên nhiều lĩnh vực, được nhân dân cả nước và cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Việt Nam là điểm sáng về tăng trưởng và thuộc nhóm nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. 

21. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam : Chiến tranh nhân dân Việt Nam - Thời kỳ 1954-1975 (Một số chuyên đề), Nxb KHXH, H, 2021, tr.158-159 

23. Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Cơ Thạch: Vì sao Mỹ thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Nxb ST, H, 1986, tr. 48.

PGS, TS NGUYỄN DANH TIÊN*
TS LÊ TRUNG NGHĨA**

1. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố then chốt nhân lên ý chí và sức mạnh Việt Nam  Thực tiễn lịch sử đã minh chứng: “thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta”2. Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đây là bài học kinh nghiệm quý, là nhân tố then chốt nhân lên ý chí và sức mạnh Việt Nam sau 50 năm thống nhất đất nước.  Phát huy thắng lợi của Đại thắng mùa Xuân 1975, trong thời kỳ cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội (1975-1986), Đảng tiếp tục bổ sung lý luận v&a

Tin khác cùng chủ đề

Dấu ấn của những Tổng Bí thư gắn với những thắng lợi tiêu biểu của cách mạng Việt Nam (Kỳ 1)
Tháng 3 ở Ninh Vân!
Phát huy giá trị bộ bản đồ và tư liệu "Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý" trong công tác thông tin, tuyên truyền hiện nay
"Điện Biên Phủ - Trận đánh của thế giới"
KỶ NIỆM 49 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG TỈNH KHÁNH HÒA (2-4-1975 - 2-4-2024): TRANG SỬ HÀO HÙNG VÀ CHÓI LỌI
Nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Gửi bình luận của bạn