Mùa Xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập. Sự ra đời của Đảng là kết quả đấu tranh của dân tộc Việt Nam diễn ra trong suốt hơn 70 năm ròng rã (từ năm 1858 đến năm 1930) với sự thể nghiệm nhiều học thuyết về con đường giải phóng dân tộc và phát triển đất nước, mà đỉnh cao chính là vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể Việt Nam. Đó cũng chính là kết quả của quá trình hoạt động phát triển lý luận và nghiên cứu, tổng kết thực tiễn không mệt mỏi của lãnh tụ Nguyễn Aí Quốc - Người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập khởi đầu tiến trình không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập khởi đầu tiến trình không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức của Đảng

1. Ngay khi đất nước đối đầu với họa ngoại xâm, khi triều đình nhà Nguyễn ngày càng lún sâu vào vũng bùn đầu hàng, từng bước từ bỏ chủ quyền quốc gia cho thực dân Pháp, nhiều phong trào kháng chiến đã diễn ra, nhiều xu hướng cải cách  đã xuất hiện với mục tiêu chung là bảo vệ nền độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất quốc gia, chấn hưng đất nước. Tiếp đó, các phong trào đấu tranh hoặc theo ý thức hệ phong kiến, hoặc theo ý thức hệ dân chủ tư sản, theo phương pháp bạo động hay cải lương diễn ra khắp Bắc, Trung,  Nam, kéo dài từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đều lần lượt bị thất bại. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến thất bại của các phong trào yêu nước với nhiều sắc thái là lạc hậu về lý luận, thiếu một học thuyết cách mạng - khoa học dẫn đường, thiếu một giai cấp lãnh đạo có sức quy tụ lực lượng toàn dân tộc, có khả năng đề ra và lãnh đạo thực hiện đường lối cách mạng, giải quyết đúng đắn mối quan hệ độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội, chủ quyền quốc gia và lợi ích của nhân dân.

Trong lúc các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc bế tắc, nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc đã nhận biết sự bức bách tìm kiếm con đường cách mạng có thể giúp dân tộc Việt Nam giành độc lập và chính Người đã tự đảm đương trách nhiệm cao cả đó. Trải qua gần 10 năm quan sát, khảo nghiệm thực tế xã hội, chế độ chính trị của các quốc gia trên thế giới, nghiên cứu các học thuyết cách mạng tư sản, tiếp thu những ảnh hưởng tốt đẹp của Cách mạng Tháng Mười Nga và hiện thực xã hội mới do nhân dân lao động thực sự làm chủ được thiết lập tại nước Nga Xôviết, đặc biệt là tiếp nhận những luận điểm cách mạng giải phóng dân tộc của Lênin trong tác phẩm Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Người nhận thấy chủ nghĩa Mác-Lênin chính là chân lý cách mạng soi sáng con đường giải phóng dân tộc. 

Bắt gặp chân lý của thời đại, cùng với tổng kết thực tiễn, nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc tiến hành vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc xác lập một hệ thống luận điểm cách mạng làm cơ sở cho việc hoạch định con đường cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam mở đường cho sự phát triển đất nước mà điểm mấu chốt nhất là đặt cách mạng Việt Nam trong phạm trù cách mạng vô sản, sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Người viết: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”1. Người khẳng định: điều quan trọng nhất của cách mạng là phải có Đảng cách mạng, được trang bị chủ nghĩa Mác - Lênin gắn bó chặt chẽ với nhân dân, lãnh đạo nhân dân. Đây chính là sự đột phá và sáng tạo về mặt lý luận trong việc xác lập con đường đấu tranh giải phóng dân tộc, phát triển đất nước mà các thế hệ người Việt Nam kế tiếp nhau tìm kiếm. Trên cơ sở đó, Người trực tiếp chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, khi điều kiện chín muồi đã chủ động triệu tập Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. 

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu, đáp ứng những yêu cầu khách quan của lịch sử dân tộc Việt Nam; là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đảng thành lập tạo một bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam, chấm dứt tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng; là sự chuẩn bị đầu tiên cho những thắng lợi vĩ đại tiếp theo của dân tộc Việt Nam; đưa cách mạng Việt Nam gắn liền với cách mạng thế giới, góp  phần  tích  cực  vào  sự  nghiệp  đấu  tranh chung của nhân loại tiến bộ. 

Cương lĩnh chính trị đầu tiên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được Hội nghị thành lập Đảng thông qua có những giá trị lý luận lớn lao, bao hàm những thành tố cơ bản nhất về cách mạng, con đường cách mạng giải phóng và phát triển của dân tộc Việt Nam, những vấn đề chiến lược, sách lược cách mạng của Đảng, phản ánh đậm nét sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam, nâng cao giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam. Cương lĩnh đã xử lý đúng đắn, hài hoà mối quan hệ dân tộc - giai cấp, đấu tranh giai cấp và liên minh giai cấp, quốc gia - quốc tế, vừa chứa đựng những nét phổ biến của cách mạng thuộc địa, vừa in đậm những đặc điểm Việt Nam. Theo đó, đường hướng phát triển của dân tộc Việt Nam là giành độc lập dân tộc, tiến hành cách mạng ruộng đất và thực hiện các quyền tự do cho nhân dân về chính trị, xã hội, văn hoá, giáo dục, phát triển nền kinh tế, đưa đất nước đi lên CNXH; động lực của cách mạng là khối đại đoàn kết dân tộc, bao gồm các giai cấp và tầng lớp nhân dân yêu nước, kể cả trung, tiểu địa chủ, phú nông, tư sản, các tổ chức yêu nước, cách mạng, chỉ trừ những phần tử phản bội Tổ quốc, làm tay sai cho đế quốc; phương pháp tiến hành là sử dụng cách mạng bạo lực, Việt Nam cần tranh thủ sự ủng hộ của cách mạng thế giới và bạn bè quốc tế, song vẫn phải dựa vào sức mình là chính và góp phần vào sự phát triển của cách mạng thế giới; nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng là Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp vô sản, phấn đấu vì thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc và nhân dân lao động được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, liên hệ chặt chẽ với nhân dân…

Những luận điểm đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, vừa đặt nền móng rất cơ bản và toàn diện; vừa tạo sự khởi đầu cho quá trình phát triển đường lối chiến lược và sách lược, cho sức sáng tạo phương pháp lãnh đạo và cách thức tiến hành cách mạng trên các chặng đường hoạt động của Đảng, là dấu mốc xuất phát của tiến trình Đảng không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để Đảng đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. 

Hiện thực lịch sử ra đời, xây dựng và trưởng thành của Đảng trong 87 năm qua cho thấy, những thành công trong lãnh đạo cách mạng của Đảng đều bắt nguồn từ những sáng tạo và phát triển lý luận cách mạng của Đảng, là kết quả của quá trình lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam chăm lo xây dựng Đảng. Sự sáng tạo và phát triển lý luận, nâng tầm trí tuệ của Đảng được thực hiện trên cơ sở nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời xuất phát từ thực tiễn dân tộc và thế giới vận động không ngừng. Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức được tiến hành đồng thời với nhiệm vụ phòng, chống và khắc phục những sai lầm, khuyết điểm về đường lối, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên. Hệ quả là Đảng đã khơi dậy và nhân lên ở cấp độ cao sức mạnh đoàn kết các giai cấp và toàn dân tộc, phát huy tinh thần chủ động, tự cường, làm nên những kỳ tích vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Đó là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên CNXH với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam. Việt Nam từ một xứ thuộc địa trở thành một quốc gia độc lập, tự do, thống nhất, phát triển theo con đường XHCN; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh CNH, HĐH, có quan hệ quốc tế sâu rộng, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.

2. Nhận thức rõ tầm quan trọng và yêu cầu vừa cấp bách, vừa lâu dài của công tác xây dựng Đảng, trong 30 năm tiến hành đổi mới, Đảng đã quan tâm công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Nhờ không ngừng làm giàu trí tuệ, Đảng đã phát triển nhận thức lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH, xác định hệ mục tiêu của XHCN mà nhân dân ta xây dựng: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; xác định được những đặc trưng về xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng; về phương hướng cơ bản và tám mối quan hệ lớn cần nắm vững và giải quyết để đưa sự nghiệp đổi mới đi lên. Nhờ không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức mà trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động nhanh chóng, phức tạp, khó lường, Đảng luôn vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định đường lối đổi mới, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, gắn bó với nhân dân, lãnh đạo nhân dân tạo nên những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới. Từ thực tiễn phong phú của cách mạng, từ quá trình xây dựng Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) rút ra những bài học kinh nghiệm lớn. Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH; Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết, đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh nêu rõ: “Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên”2. Những bài học kinh nghiệm trên đây cũng chính là những thành tựu trong phát triển lý luận, tổng kết thực tiễn của toàn bộ sự nghiệp cách mạng cũng như của công tác xây dựng Đảng. 

Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng cũng bộc lộ nhiều hạn chế, khuyết điểm cả trên lĩnh vực nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn xây dựng Đảng, thể hiện trên các mặt, các nội dung, các khâu công tác. Những vấn đề lý luận về Đảng cầm quyền trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế chưa thật rõ về nội dung, mô hình, phương thức cầm quyền. Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc trong hệ thống chính trị chưa xác định thật rõ và thật cụ thể. Việc dự báo, hoạch định, lãnh đạo tổ chức thực hiện các nghị quyết, chính sách của Đảng, Nhà nước chưa kịp thời, đồng bộ, hiệu quả; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp, có nơi, có lúc mất sức chiến đấu; công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên ở một số nơi chưa được quan tâm thường xuyên; chất lượng sinh hoạt đảng, tính chiến đấu trong tự phê bình, phê bình còn yếu; tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, hiệu quả hoạt động chưa cao… “Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên đã làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ”3.

Trước những đòi hỏi mang tính sống còn về đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề của thời kỳ phát triển mới, Đại hội XII của Đảng (1-2016), xác định xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, trong đó, tập trung xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh không chỉ về chính trị, tư tưởng, tổ chức mà cả về đạo đức, tích cực đổi mới phương thức lãnh đạo. Báo cáo chính trị của Đại hội xác định nhiệm vụ trọng tâm đầu tiên trong 6 nhiệm vụ trọng tâm của cả thời kỳ là: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng” với hai nội dung cốt yếu nhất là: ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ và tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. 

Nghị quyết Đại hội XII đề ra 10 nhiệm vụ về công tác xây dựng Đảng, đó là: Phải chú trọng xây dựng Đảng về chính trị; Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng; Tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng; Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên; Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ; Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là với Nhà nước. 

Đại hội đề ra các giải pháp tiến hành công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bao gồm: tiếp tục nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích, phương thức, nội dung và điều kiện cầm quyền, về phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền, những nguy cơ cần lưu ý phòng ngừa đối với đảng cầm quyền; tiếp tục cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011); quy định rõ hơn các tiêu chí Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về các quyết định của mình; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, có cơ chế để các địa phương phát huy quyền chủ động, sáng tạo, gắn với đề cao trách nhiệm, đồng thời bảo đảm sự lãnh đạo, quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ trong toàn Đảng; đổi mới phương pháp, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo các cấp, xây dựng phong cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, gần dân,... Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã đánh dấu một bước phát triển mới về lý luận và tổng kết thực tiễn xây dựng Đảng, thể hiện một quyết tâm mới về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, HNTƯ 4 khóa XII (10-2016) đã ra Nghị quyết số 04-NQ/TW về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Nghị quyết chỉ rõ 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”,  bao gồm 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống và 9 biểu hiện về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Nghị quyết chỉ rõ: Trong các biểu hiện đó, nguy hiểm nhất là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường XHCN, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin, nói trái, làm trái quan điểm của Đảng; thậm chí sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, phụ họa theo những quan điểm sai trái, lệch lạc; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao, không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng. Sự suy thoái về đạo đức, lối sống còn thể hiện ở chỗ sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, tham quyền lực, bè phái cục bộ, mất đoàn kết, tư duy nhiệm kỳ, lợi ích nhóm, quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn bức xúc của dân. Nghị quyết đề ra 4 nhóm giải pháp với những điểm nhấn quan trọng, đó là: nhóm giải pháp về công tác chính trị tư tưởng, tự phê bình và phê bình; nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách; nhóm giải pháp về kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng; nhóm giải pháp về phát huy vai trò của nhân dân và Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội.  Trong các nhóm giải pháp đều có giải pháp trọng tâm, mới, mạnh mẽ, quyết liệt, như: Đổi mới và bắt buộc học tập lý luận chính trị; Cam kết rèn luyện giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; Cơ chế kiểm soát quyền lực; Siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, đề cao pháp luật của Nhà nước, công khai kết quả xử lý vi phạm; Tăng cường sự giám sát của nhân dân trong xây dựng Đảng; Phát huy vai trò của báo chí, các cơ quan truyền thông... 

NQTƯ 4 khóa XII thể hiện rõ quyết tâm chính trị rất cao, nỗ lực rất lớn và tư tưởng nhất quán của Đảng về tầm quan trọng đặc biệt của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nghị quyết thể hiện tầm nhìn và thái độ quyết liệt của Đảng, nghiêm túc, nghiêm khắc chỉ rõ những biểu hiện và mức độ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Nghị quyết xác định rõ mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, giải pháp đồng bộ, chính diện, quyết liệt, trong đó có giải pháp, cơ chế làm ngay, có giải pháp phải kiên trì triển khai lâu dài, có giải pháp cấp bách, có giải pháp mang tính đột phá. NQTƯ 4 đi vào cuộc sống sẽ tạo ra chuyển biến rõ rệt trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đây cũng chính là sự kế tục và phát triển lên một tầm cao mới nhiệm vụ xây dựng Đảng, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao năng lực lãnh đạo, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức của Đảng được khởi đầu từ Hội nghị thành lập Đảng đầu năm 1930. 

3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh là cơ quan trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ; đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Trong hơn 30 năm thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nghiên cứu khoa học lý luận chính trị theo đường lối đổi mới của Đảng, Học viện đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao; vươn lên vị thế là Trung tâm quốc gia đào tạo và nghiên cứu khoa học có uy tín của Đảng, Nhà nước. 

Là một trung tâm quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nghiên cứu khoa học lý luận, trong bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với  công tác cán bộ và phát triển lý luận, Học viện có vai trò và trọng trách lớn lao. Để phát triển Học viện ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, trong thời gian tới, Học viện sẽ tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm: củng cố vị thế với tư cách là trung tâm quốc gia nghiên cứu hàng đầu về khoa học, lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khoa học chính trị và một số ngành khoa học xã hội khác; trung tâm quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cho toàn bộ hệ thống chính trị, tiếp tục đổi mới nội dung các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo phương châm: cơ bản, hệ thống, thực tiễn và hiện đại. Học viện sẽ tập trung vào sứ mệnh góp phần củng cố, phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng và giữ vững kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế; góp phần cung cấp luận cứ khoa học và thực tiễn cho Đảng, Nhà nước trong hoạch định đường lối, chủ trương, chiến lược phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Học viện tham gia luận chứng một số vấn đề lớn, phức tạp và thật sự cấp thiết để góp phần thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, cũng như công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng: Nội dung, cơ chế vận hành và giải pháp thực hiện mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta trong thời gian tới; Những tiêu chí cụ thể của việc xây dựng và phát triển quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp mà Văn kiện Đại hội XII đã nêu ra; Nghiên cứu ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững; Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ… 

Kỷ niệm 87 năm ngày thành lập Đảng, trong năm 2017, cùng với việc tiếp tục thực hiện phương châm  “Kỷ cương, đồng bộ, đổi mới, hiệu quả” đã phát động, Học viện hướng tới phương châm “Đột phá, sáng tạo, chất lượng, hiệu quả”, hoàn thành tốt những nhiệm vụ chủ yếu nhằm tạo bước thay đổi mạnh mẽ, căn bản về chất lượng, hiệu quả tất cả các hoạt động của Học viện. Trước mắt tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, viên chức đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đủ năng lực, phẩm chất; khắc phục cơ bản tình trạng hẫng hụt cán bộ; đổi mới công tác quản lý, nghiên cứu khoa học chú trọng vào sự phát triển lý luận, cung cấp luận cứ khoa học góp phần tích cực cho việc xây dựng, hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như phục vụ nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; đổi mới căn bản chương trình, nội dung các hệ đào tạo, bồi dưỡng; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác hợp tác quốc tế; xây dựng cơ sở vật chất hiện đại đáp ứng yêu cầu đào tạo, nghiên cứu, học tập,…Thực hiện tốt các nhiệm vụ trên đây, Học viện sẽ thiết thực đóng góp vào sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH, cũng như vào nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng và NQTƯ 4 khóa XII (10-2016).

Bài đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng (in), số 2/2017

1. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 1, tr. 441

2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr. 66.

GS, TS NGUYỄN XUÂN THẮNG

 

Uỷ viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
1. Ngay khi đất nước đối đầu với họa ngoại xâm, khi triều đình nhà Nguyễn ngày càng lún sâu vào vũng bùn đầu hàng, từng bước từ bỏ chủ quyền quốc gia cho thực dân Pháp, nhiều phong trào kháng chiến đã diễn ra, nhiều xu hướng cải cách  đã xuất hiện với mục tiêu chung là bảo vệ nền độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất quốc gia, chấn hưng đất nước. Tiếp đó, các phong trào đấu tranh hoặc theo ý thức hệ phong kiến, hoặc theo ý thức hệ dân chủ tư sản, theo phương pháp bạo động hay cải lương diễn ra khắp Bắc, Trung,  Nam, kéo dài từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đều lần lượt bị thất bại. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến thất bại của các phong trào yêu nước với nhiều sắc thái là lạc hậu về lý luận, thiếu một học th

Tin khác cùng chủ đề

Dấu ấn của những Tổng Bí thư gắn với những thắng lợi tiêu biểu của cách mạng Việt Nam (Kỳ 1)
Tháng 3 ở Ninh Vân!
Phát huy giá trị bộ bản đồ và tư liệu "Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý" trong công tác thông tin, tuyên truyền hiện nay
"Điện Biên Phủ - Trận đánh của thế giới"
KỶ NIỆM 49 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG TỈNH KHÁNH HÒA (2-4-1975 - 2-4-2024): TRANG SỬ HÀO HÙNG VÀ CHÓI LỌI
Nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Gửi bình luận của bạn