Bài 1: Trận địa kiên cường
Nhận được giấy mời dự cuộc gặp mặt kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025) của Ban Liên lạc Cựu chiến binh Trại Davis, chúng tôi liên lạc với Đại tá Đinh Quốc Kỳ, nguyên sĩ quan liên lạc Đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam (Đoàn B), và được Đại tá tiếp thân tình. Cùng trò chuyện với chúng tôi là ông Phan Đức Thắng, nguyên sĩ quan phiên dịch Đoàn B. Hai ông đã kể lại nhiều kỷ niệm không thể quên về những ngày chiến đấu giữa vòng vây của kẻ thù.
Vào nơi "hang hùm, miệng rắn"
Người thanh niên phố cổ Hà Nội Đinh Quốc Kỳ có mặt tại chiến trường miền nam từ năm 1965, đã tham gia những trận đánh lịch sử trên chiến trường Tây Nguyên. Tháng 1/1973, ông là cán bộ Cục Chính trị Quân Giải phóng miền nam-B2, vào Trại Davis nhận nhiệm vụ tại Tiểu ban Trao trả. 823 ngày đêm chiến đấu giữa lòng địch, các ông và đồng đội đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Đã hơn 50 năm, nhớ lại những ngày hoạt động giữa hang ổ kẻ thù, ông Kỳ chia sẻ, phía Sài Gòn yêu cầu ta phải làm thủ tục “nhập cảnh”, ta kiên quyết bác bỏ, viện dẫn Hiệp định Geneva rồi Hiệp định Paris đều thừa nhận sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, không có chuyện “hai quốc gia”.
Hơn 1 ngày ngồi trên máy bay giữa đường băng sân bay Tân Sơn Nhất, họ phải phục vụ ăn uống, sinh hoạt cá nhân cho ta. Cuối cùng, lo ngại ảnh hưởng việc trao trả tù binh Mỹ, Ủy ban Quốc tế can thiệp, họ phải cho xe ra đón, nhưng xe lại cắm cờ trắng (?!).
Đúng giờ hẹn, họ cho máy bay ném bom sân bay Thiện Ngôn trong vùng giải phóng, nơi trực thăng Mỹ đón Phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam do Trung tướng Trần Văn Trà làm Trưởng đoàn vào Trại Davis.
Ông Phan Đức Thắng bổ sung, phía Sài Gòn còn cho côn đồ hành hung, gây thương vong cho các sĩ quan, chiến sĩ ta đi làm nhiệm vụ. Ở Bảo Lộc, họ phục kích, bắn chết 4 đồng chí.
Ngày 9/2/1973, côn đồ tấn công ta ở Buôn Ma Thuột làm 6 người bị thương. Trung tá Vanden Bosche, đại diện Mỹ tại Tổ Liên hợp quân sự Bốn bên ở địa phương đã phải báo cáo về Phái đoàn Mỹ ở Sài Gòn: “Sự cố này là do các đại diện của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa sắp đặt và thực hiện, với sự tiếp tay của lực lượng Cảnh sát quốc gia”.
Khi chúng ta vào tiếp quản, Trại Davis rất lộn xộn, bừa bãi. Ban An ninh ta phải rà soát, dò từng centimet, thu được một số thiết bị điện tử cài trong các phòng họp, phòng làm việc, thậm chí cả phòng ngủ.
Chung quanh trại, địch quây rào thép gai, gài mìn dày đặc, bố trí 13 vọng gác, đại liên suốt ngày chĩa sang ta. Họ cắt điện, cắt nước, phá sóng liên lạc vô tuyến... gây rất nhiều khó khăn cho ta.
Phiên họp Bốn bên đầu tiên, họ đặt tấm biển “Phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời” trên bàn. Trung tướng Trần Văn Trà nghiêm khắc cảnh cáo, yêu cầu phải ghi đủ “Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam” mới bắt đầu khai mạc.
Họ cài cắm nhân viên CIA, DIA của Mỹ; Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo, Tổng nha Cảnh sát, Phòng 2 Bộ Tổng Tham mưu và Cục An ninh quân đội ngụy làm nhân viên lái xe, sửa chữa điện nước, cung cấp lương thực, thực phẩm…
Việc ký kết văn bản Hiệp định Paris là thắng lợi có ý nghĩa lịch sử, nhưng để các điều khoản của Hiệp định được thi hành nghiêm chỉnh, đạt được mục tiêu thống nhất đất nước là nhiệm vụ có tính quyết định để thắng lợi trọn vẹn. Nhiệm vụ ấy được hai Phái đoàn đại biểu quân sự ta trong Ban Liên hợp quân sự Bốn bên (Hai bên Trung ương) hoàn thành xuất sắc trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, hiểm nghèo giữa vòng vây của kẻ thù. Mặt trận ngoại giao quân sự đã góp phần xứng đáng vào Chiến thắng ngày 30/4/1975, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước, được Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh công nhận là “cánh quân thứ sáu”.