Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, mà một trong bài học kinh nghiệm quý báu đó là phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tạo thành sức mạnh vật chất, tinh thần to lớn để chiến thắng kẻ thù. Bài viết làm rõ vai trò của đoàn kết dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945; từ đó vận dụng vào giai đoạn cách mạng hiện nay để tiếp tục phát huy tinh thần, khí thế đại đoàn kết dân tộc trong thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Phát huy bài học về đại đoàn kết dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới
Phát huy bài học về đại đoàn kết dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội; lần đầu tiên trong lịch sử chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động từ trung ương đến địa phương; người dân bước lên vũ đài chính trị với tư cách là người làm chủ đất nước, được hưởng thành quả lao động do chính mình làm ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây nền tảng cho nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta”(1). Thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, và một trong bài học đó là phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo thành sức mạnh vô địch trong Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi cả nước. Bài học này, đến nay vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục phát huy trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Đại đoàn kết dân tộc tạo thành sức mạnh vô địch trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kêt thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự hiểm nguy, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(2). Chính vì vậy, ngay sau khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam vào năm 1858, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước đã đoàn kết, tập hợp lực lượng rộng rãi trong xã hội đứng dậy chống lại cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa của thực dân Pháp, bảo vệ từng “tấc đất, tấc vàng” thiêng liêng của tiên tổ để lại. Tuy nhiên, các cuộc đấu tranh, phong trào yêu nước của nhân dân ta đều thất bại, bị dìm trong biển máu vì thiếu một đường lối cách mạng đúng đắn; thiếu sự lãnh đạo của một giai cấp tiên tiến.

Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang bế tắc, khủng hoảng về đường lối, không xác định được mục tiêu, phương hướng con đường đấu tranh cách mạng đúng đắn cho dân tộc, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (sau này là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã xuất hiện, đem lại một niềm hy vọng, tương lai tươi sáng cho đất nước sau này. Sinh ra và lớn lên trong gia đình nhà nho yêu nước, có truyền thống cách mạng, cùng với tư chất thông minh, bản lĩnh ngay từ thời niên thiếu đã hấp thụ, bồi đắp nên một Nguyễn Tất Thành có trái tim nhân hậu vĩ đại suốt đời vì nước, vì dân. Ngày 05/6/1911, Nguyễn Tất Thành đã rời bến nhà Rồng (Sài Gòn, nay là Thành phố Hồ Chí Minh) ra đi tìm đường cứu nước với mục tiêu, khát vọng “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những gì tôi muốn, tất cả những điều tôi hiểu”(3).

Sau những ngày tháng buôn ba khắp hải ngoại, làm đủ mọi nghề để kiếm sống vừa hoạt động cách mạng, vừa tích cực tự học, cuối cùng Người đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc thông qua bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin. Người khẳng định: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”(4). Kể từ đó, Người đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược và phong kiến tay sai phát triển mạnh mẽ; đặt cơ sở, nền tảng cho sự ra đời chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân, với đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 03/02/1930). Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã giương cao ngọn cờ cách mạng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tập hợp, đoàn kết đông đảo các giai cấp, tầng lớp nhân dân trong xã hội trong Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh (Mặt trận Việt Minh) để đấu tranh cách mạng đòi quyền sống, quyền bình đẳng, tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc cho toàn thể dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cao trào cách mạng như cao trào 1930 -1931, mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ tĩnh với khẩu hiệu “Độc lập dân tộc” và “Ruộng đất dân cày”; cao trào cách mạng 1936- 1939 với khẩu hiệu “Chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do dân chủ cơm áo hòa bình”; cao trào cách mạng 1939-1945 với khẩu hiệu “Độc lập dân tộc”, “Đánh đuổi Pháp - Nhật” đã trở thành ngày hội cách mạng để quy tụ sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc; toàn dân tộc Việt Nam là khối đoàn kết thống nhất về ý chí và hành động cách mạng, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, đảng phái, tôn giáo, vùng, miền đều phải nhất tề đứng lên đánh Pháp, đuổi Nhật giành độc lập, tự do cho dân tộc. Đảng ta chỉ rõ: “Liên hiệp các giới đồng bào yêu nước không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc giải phóng và sinh tồn”(5).

 Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc phát huy mạnh mẽ ở tinh thần, khí thế đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân khi thời cơ đến. Cuối năm 1944 đầu năm 1945, tình hình thế giới có nhiều diễn biến mau lẹ theo chiều hướng có lợi cho phong trào cách mạng ở Việt Nam, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, với thắng lợi thuộc về Liên Xô, chủ nghĩa phát xít đã bị tiêu diệt. Ở Đông Dương, phát xít Nhật đã hoang mang, dao động đến cực độ, không còn khả năng chống cự, tuyên bố đầu hàng Việt Minh không điều kiện. Các thế lực tay sai của chủ nghĩa thực dân là chế độ phong kiến ở các vùng nông thôn đã bị Mặt trận Việt Minh và quần chúng nhân dân vô hiệu hóa mọi hoạt động. Cả dân tộc Việt Nam là một khối đoàn kết sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, vùng lên đấu tranh đập tan bộ máy cai trị phản động đã áp bức, bóc lột nhân dân suốt một thời gian dài. Tháng 8/1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp ở đình Tân Trào (Tuyên Quang) đã chỉ rõ: cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương. Cũng trong cùng thời gian này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thi kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước đồng lòng, nhất trí về mọi mặt dũng cảm đứng lên giành độc lập, tự do cho dân tộc “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta… Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh đồng bào hãy dũng cảm tiến lên”(6). Lời kêu gọi của Người đã trở thành mệnh lệnh của trái tim, là tiếng gọi của non sông đất nước, là lời hịch thúc giục đồng bào và chiến sĩ cả nước phát huy cao độ truyền thống đoàn kết của ông cha trong lịch sử tiến công vào tận sào huyệt của chủ nghĩa phát xít và chế độ tay sai giành lấy chính quyền về tay nhân dân.

Dưới sự lãnh đạo tài tình, đúng đắn, sáng tạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, 20 triệu đồng bào ta đã “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” làm nên một cuộc cách mạng “long trời lở đất” trong lịch sử, đập tan bộ máy cai trị của chủ nghĩa thực dân, phát xít và tay sai từ trung ương đến địa phương. Chỉ trong vòng 15 ngày (từ ngày 14 đến ngày 28/8/1945), Cách mạng Tháng Tám đã thành công trong phạm vi cả nước, chính quyền công - nông được thành lập, lần đầu tiên trong lịch sử người dân bước lên vũ đài chính trị, với tư cách là người làm chủ xã hội của một đất nước đã có độc lập, tự do. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhờ đại đoàn kết mà nhân dân Việt Nam đã đánh thắng chủ nghĩa thực dân, làm Cách mạng Tháng Tám thành công”(7).

2. Tiếp tục phát huy bài học về đại đoàn kết dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Phát huy tinh thần, khí thế sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng truyền thống đó lại được toả sáng, nhân lên trong suốt tiến trình phát triển của đất nước. Tuy có những giai đoạn, thời điểm đất nước đứng trước nhiều khó khăn, thử thách, song với bản lĩnh của một Đảng đã được tôi luyện qua thực tiễn, Đảng ta đã vững tay lái, nêu cao tinh thần đoàn kết, thống nhất trong nội bộ và trong toàn xã hội đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua mọi trông gai, tiếp tục tiến về phía trước, thực hiện di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh “đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(8). Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, như Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 12/3/2003 Hội nghị Trung ương lần thứ bảy Khóa IX về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023 Hội nghị Trung ương lần thứ tám Kkhóa XIII về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(9). Tổng Bí thư Tô Lâm cũng khẳng định: “giữ gìn đoàn kết chính là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu - là điều kiện tiên quyết để mọi công việc cải cách khác diễn ra thuận lợi”(10).

Chính vì thế, trong thời gian vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự đồng lòng, ủng hộ của toàn dân mà công cuộc đổi mới đất nước, mở cửa, hội nhập quốc tế đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế tăng trưởng khá, chính trị ổn định, văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục phát triển mạnh, quốc phòng, an ninh được giữ vững, quan hệ đối ngoại mở rộng… Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ: “Nhờ đoàn kết, chúng ta biến nguy thành an, hóa giải được mọi âm mưu “chia rẽ, phá hoại” của mọi kẻ thù… xây dựng và giữ gìn đoàn kết luôn phải là mối quan tâm hàng đầu của mọi tổ chức cách mạng chân chính”(11).

Đất nước đang đứng trước ngưỡng cửa bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, phồn vinh, thịnh vượng, ấm no, hạnh phúc. Để hiện thực hóa khát vọng và mục tiêu đó, một trong những nội dung, biện pháp quan trọng hàng đầu là giữ vững và phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài trong nội bộ và trong toàn xã hội; tạo thành sức mạnh tổng hợp trong thực hiện yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước ở thời kỳ mới là vận hành mô hình chính quyền địa phương hai cấp, tiến hành Đại hội đại biểu các cấp, tiến tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng. Để phát huy tinh thần, chúng ta cần phải:

Trước hết, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể, lực lượng về tầm quan trọng phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

Đảng ta chỉ rõ: “Tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc; về vị trí, tầm quan trọng của phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn mới”(12). Theo đó, cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương cần quán triệt và thực hiện nghiêm quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng, Nhà nước để cụ thể hóa vào từng lĩnh vực, hoạt động và phù hợp với đặc điểm tình hình, yêu cầu, nhiệm vụ, truyền thống của mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương. Cần đa dạng hóa các hình thức, biện pháp tuyên truyền, giáo dục để khơi dậy lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc; cán bộ, đảng viên, người đứng đầu gương mẫu, nêu cao tinh thần đoàn kết, từ đó vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân tham gia vào các hoạt động xã hội khác nhau. Thực hiện tốt các chính sách xã hội, tạo môi trường thuận lợi để mỗi người dân phát huy quyền làm chủ của mình, được hưởng những chế độ, chính sách ưu việt do Đảng, Nhà nước ban hành.

Hai là, đề cao tinh thần, trách nhiệm gương mẫu trong lời nói và hành động của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu.

Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ rõ: “Mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự là tấm gương về giữ gìn đoàn kết nội bộ, luôn đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân”(13). Với tinh thần này, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu phải luôn nêu cao tinh thần, trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và Nhân dân; giữ mình ở mọi lúc, mọi nơi, đặt lợi ích của tập thể, của Nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; thường xuyên “tự soi”, “tự sửa” suy nghĩ, hành động phù hợp với chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong tình hình mới, phong tục, tập quán của dân tộc. Tuyệt đối không được lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, đưa người nhà, có quan hệ thân quen để tham nhũng, tiêu cực. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu thực sự là hạt nhân đoàn kết, trung tâm quy tụ ý chí và hành động của các tầng lớp Nhân dân để thực hiện thắng lợi yêu cầu, nhiệm vụ của việc vận hành hệ thống chính trị và chính quyền địa phương 02 cấp hiện nay.

Ba là, tiếp tục điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật để đánh thức, khơi dậy nguồn lực con người cho sự nghiệp phát triển đất nước.

Đảng ta chỉ rõ: “Tiếp tục hoàn thiện chủ trương, chính sách về phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn mới; phát huy vai trò của các giai tầng xã hội; khơi dậy mọi tiềm năng, sức sáng tạo của mỗi người Việt Nam, góp phần xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(14). Do đó, cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương cần cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vào từng lĩnh vực, hoạt động ứng với mỗi giai cấp trong xã hội nhất định. Bảo đảm mọi người dân Việt Nam được tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, đời sống văn hóa mới phù hợp với trình độ, năng lực, sở trường, thế mạnh của bản thân. Thường xuyên điều chỉnh bổ sung, cơ chế, chính sách chăm lo, giải quyết việc làm, người có công với cách mạng, những người yếu thế không có khả năng lao động, gia đình có hoàn cảnh khó khăn trong xã hội, nhất là đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới; bảo đảm công bằng, bình đẳng, người làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít. Thực hiện nghiêm quy chế dân chủ ở cơ sở để lắng nghe, giải quyết khó khăn, vướng mắc trong Nhân dân, đặc biệt là những vấn đề có liên quan đến thu hồi, giải phóng đất đai, đền bù cho người dân; xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với tập thể, cá nhân làm việc thiếu trách nhiệm, đùn đẩy, có thái độ hách dịch, quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, gây khó khăn, cản trở cho người dân, doanh nghiệp đến làm việc. Xây dựng môi trường văn hóa trong sạch ở mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương để mỗi người cân bằng cuộc sống vật chất và tinh thần; tích cực, chủ động đấu tranh với những biểu hiện thờ ơ, bàng quan về chính trị trong xã hội, đặc biệt là âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Bốn là, tổ chức có hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước để tập hợp, đoàn kết Nhân dân xây dựng cơ quan, đơn vị, địa phương trong sạch, lành mạnh.

Việc tổ chức thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước ở mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương sẽ góp phần quan trọng vào việc xây dựng môi trường trong sạch, lành mạnh, loại bỏ văn hóa phẩm đồi trụy và các tệ nạn xã hội ra bên ngoài, thúc đẩy cá nhân mỗi người hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Vì vậy, người đứng đầu mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương cần đẩy mạnh thực hiện các phong trào thi đua yêu nước để dấy lên tinh thần, khí thế, động lực mới cho mỗi người trong quá trình sinh sống, làm việc; xác định các chỉ tiêu thi đua phù hợp, hiệu quả với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra; phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau trong công việc, cuộc sống. Gắn việc thực hiện các phong trào thi đua yêu nước với việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Tôn vinh, biểu dương những gương người tốt, việc tốt có nhiều đóng góp cho xã hội, nỗ lực, cố gắng trong thực hiện các phong trào thi đua yêu nước; kiên quyết xử lý những tập thể, cá nhân có biểu hiện mất đoàn kết, mất dân chủ, kèn cựa, đố kỵ. Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ rõ: “phải đoàn kết, nghiêm túc thực hiện, tuyệt đối không để xảy ra tình trạng bè phái, cục bộ địa phương, gây rạn nứt đoàn kết nội bộ”(15).

Thời gian lùi xa, đẩy các sự kiện vào quá khứ dĩ vãng, song bài học về phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn còn nguyên tính thời sự nóng hổi; tiếp tục là động lực, mạch nguồn để chúng ta tăng tốc, bứt phá, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng; là bảo bối để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức đưa con thuyền cách mạng Việt Nam hoà vào biển lớn của dòng chảy thế giới. Phát huy bài học về đại đoàn kết toàn dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mỗi người dân Việt Nam và kiều bào ta ở nước ngoài càng thêm tự hào, thấm thía sâu sắc hơn giá trị của độc lập, tự do, hạnh phúc; từ đó, đặt ra cho mỗi người luôn khắc cốt, ghi tâm truyền thống đoàn kết của dân tộc, đó là “vũ khí” để dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Sức mạnh của đoàn kết một lần nữa sẽ giúp chúng ta vượt qua mọi trở ngại, biến thách thức thành cơ hội, đưa đất nước vững vàng tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phồn vinh, thịnh vượng, hội nhập và phát triển bền vững vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân”(15)./.

Tài liệu trích dẫn

(1), (2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG-ST, H. 2011, t.7, tr.26, 38.

(3) Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.1, tr.112.

(4) Hồ Chí MinhToàn tập, Sđd, t.12, tr.562.

(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG-ST, H. 2005, t.4, tr.465.

(6) Hồ Chí MinhToàn tập, Sđd, t.4tr.4.

(7) Hồ Chí MinhToàn tập, Sđd, t.9tr.53.

(8) Hồ Chí MinhToàn tập, Sđd, t.15tr.624.

(9) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb CTQG-ST, H. 2021tr.110.

(10), (11), (13), (15) Tô Lâm, Sức mạnh của đoàn kết, https://baotintuc.vn, ngày 29/6/2025.

(12), (14). Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023, Hội nghị Trung ương lần thứ tám, Khóa XIII về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Trung tá Nguyễn Thanh Tùng - Hệ 5, Học viện Chính trị

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội; lần đầu tiên trong lịch sử chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động từ trung ương đến địa phương; người dân bước lên vũ đài chính trị với tư cách là người làm chủ đất nước, được hưởng thành quả lao động do chính mình làm ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây nền tảng cho nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn t

Tin khác cùng chủ đề

Dấu ấn của những Tổng Bí thư gắn với những thắng lợi tiêu biểu của cách mạng Việt Nam (Kỳ 1)
Tháng 3 ở Ninh Vân!
Phát huy giá trị bộ bản đồ và tư liệu "Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý" trong công tác thông tin, tuyên truyền hiện nay
"Điện Biên Phủ - Trận đánh của thế giới"
KỶ NIỆM 49 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG TỈNH KHÁNH HÒA (2-4-1975 - 2-4-2024): TRANG SỬ HÀO HÙNG VÀ CHÓI LỌI
Nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Gửi bình luận của bạn